TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Posts Tagged ‘tính liên kết’

Một số vấn đề về ngữ pháp văn bản tiếng Việt (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 25, 2012

2.3 Những đặc trưng của văn bản
Văn bản tiếng Việt hiện nay cũng được xem xét trên các bình diện đã nói ở trên. Tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu và miêu tả, các bình diện của văn bản không phải bao giờ cũng được xem xét một cách riêng rẽ mà có thể được xem xét kết hợp dưới góc độ một đặc trưng nào đó của nó. Chẳng hạn, tính liên kết của văn bản không chỉ được miêu tả trên bình diện cấu tạo hình thức mà còn cả trên bình diện nội dung của nó, nghĩa là có thể nói tới ‘sự liên kết hình thức’ và ‘sự liên kết nội dung’ của văn bản. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về ngữ pháp văn bản, người ta thường tiếp cận văn bản từ phía các đặc trưng của chúng. Đó là những đặc trưng giúp ta nhận biết văn bản trong số những đơn vị ngôn ngữ khác không phải là văn bản (gọi chung là ‘tính văn bản’ hay ‘các phạm trù của tính văn bản’). Trong ngữ pháp văn bản, người ta thường nêu lên những đặc trưng chủ yếu sau đây [dựa theo đề xuất của Beaugrande i Dressler(1990)]:
– tính liên kết (kohezja),
– tính mạch lạc (koherencja),
– tính chủ định (intencjonalność),
– tính chấp nhận được (akceptowalność),
– tính thông tin (informacyjność),
– tính tình huống (sytuacyjność) ,
– tính liên văn bản (intertekstualność)
Cũng chính vì vậy, văn bản được định nghĩa là ‘một sự kiện giao tiếp đáp ứng được bảy tiêu chuẩn về tính văn bản” nói trên. Nếu thiếu bất kỳ một tiêu chuẩn nào trong số đó thì „văn bản” cũng không mang tính giao tiếp, mà không có tính giao tiếp thì ngôn phẩm sẽ không phải là văn bản.

2.4 Phân loại văn bản
Nói chung, cho đến nay, việc phân loại văn bản trong giới ngôn ngữ học thường không nhất quán, đó là vì văn bản có thể được phân loại theo những cách khác nhau, tùy theo góc độ quan sát văn bản. Chẳng hạn, có thể phân biệt những cặp văn bản đối lập như ‘văn bản nói’/ văn bản viết’; ‘văn bản ngẫu sinh’/ ‘văn bản tái sinh’ (‘sao chép’); ‘văn bản công khai’/ ‘văn bản riêng tư’; ‘văn bản thông dụng’/ ‘văn bản nghệ thuật’; ‘văn bản tự sự’/ văn bản mô tả’…
Trong tiếng Việt, văn bản cũng có thể phân loại theo những cách khác nhau, cụ thể như sau:
(i) Xét về dạng thức tồn tại: ‘văn bản nói’ và ‘văn bản viết’. Tuy nhiên, ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, sự phân biệt hai loại văn bản như trên không chỉ căn cứ vào dạng thức tồn tại mà trước hết là căn cứ vào những đặc điểm của những phương tiện dùng để cấu tạo nên văn bản (ví dụ: đặc điểm của từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp).
(ii) Xét về kiểu cấu tạo: ‘văn bản ổn định’, được xây dựng theo những mô hình đã trở thành khuôn mẫu (ví dụ: đơn từ, tờ khai, hợp đồng), ‘văn bản thông dụng, được xây dựng theo một mô hình thông dụng, có tính đến những yếu tố như thói quen truyền thống, trình tự trình bày các phần (ví dụ: tiểu luận, luận văn khoa học, tờ trình), và ‘văn bản tự do’, được xây dựng không theo một mô hình hay bố cục nhất định nào mà do người viết tự ý sáng tạo ra (ví dụ: tác phẩm văn học, sách khoa học thường thức)
(iii) Xét về phong cách chức năng: ‘văn bản hành chính’, ‘văn bản báo chí-chính luận’, ‘văn bản khoa học’ và ‘văn bản văn chương’.

Ngoài ra, có thể phân biệt các văn bản về mặt quy mô. Xét về mặt này, có thể phân biệt: ‘văn bản một phần’ (chỉ bao gồm phần tin), ‘văn bản hai phần’ (phần mở đầu và phần tin) và ‘văn bản ba phần’ (mở đầu, phần tin và phần kết).

3. Sự liên kết hình thức giữa các câu trong văn bản tiếng Việt

Để liên kết hình thức các câu/ phát ngôn (từ đây sẽ gọi chung là phát ngôn) trong văn bản, tiếng Việt sử dụng một số ‘yếu tố ngữ âm’ (âm tiết, vần, phụ âm đầu, thanh điệu) và ‘yếu tố ngữ pháp’ (hư từ, cấu trúc ngữ pháp). Phương thức sử dụng các yếu tố liên kết này là ‘lặp lại’ chúng trong những phát ngôn khác nhau và nhờ đó tạo ra sự liên kết giữa các phát ngôn đó.

3.1. Lặp ngữ âm
Phép ‘lặp ngữ âm’ thường được dùng trong các tác phẩm thi ca, (hay chung hơn: ‘văn vần’). Trong các loại văn bản khác, gọi chung là ‘văn xuôi’, phương thức này ít khi được sử dụng.
Trong văn vần, trước tiên phải nói đến phương thức ‘lặp số lượng âm tiết’. Phương thức này cho phép tạo ra các thể thơ khác nhau. Chẳng hạn, nếu số lượng các âm tiết được lặp đi lặp lại đều đặn giữa các câu kế tiếp nhau thì ta sẽ có các thể thơ bốn chữ, thơ năm chữ hay thơ bảy chữ… So sánh:

1) Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt

(ca dao)

2) Đường lúc hoàng hôn xuống,
Là lúc viễn khách đi.
Nước đượm màu li biệt,
Trời vương hương biệt li

(Xuân Diệu – Viễn khách)

3) Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
.
(Hồ Xuân Hương – Bánh trôi nước)

Còn nếu số lượng âm tiết được lặp lại ở những câu đứng cách nhau hoặc kết hợp cả hai cách lặp nói trên thì ta có các thể thơ lục bát hay song thất lục bát. So sánh:

4) Bao giờ anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
.
(ca dao)

(5) Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thôi hôm, những sầu
.
(Đoàn Thị Điểm – Chinh phụ ngâm)

Phương thức ‘lặp vần’ cũng là một phương thức lặp ngữ âm phổ biến để tạo ra sự liên kết giữa các câu thơ. Tuy nhiên, các vần không phải bao giờ cũng được lặp lại hoàn toàn mà có thể chỉ là lặp một phần nhưng phải tuân theo những nguyên tắc về luật hài âm. Ví dụ:

(i) Lặp hoàn toàn:

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

(Chinh phụ ngâm)

(ii) Lặp bộ phận:
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường?

Ngoài ra, còn có ‘lặp âm tiết’, nhưng theo kết quả nghiên cứu (ví dụ: Trần Ngọc Thêm), phương thức này ít khi được sử dụng.
Trái lại, trong văn xuôi, phương thức lặp vần tuy cũng được sử dụng nhưng rất ít gặp. Phương thức lặp ngữ âm phổ biến ở đây là lặp số lượng âm tiết và thường đi kèm với ‘lặp ngữ pháp’. (xem bên dưới). Đó là do phương thức lặp ngữ âm trong văn xuôi chỉ tạo ra một độ liên kết không đáng kể, chủ yếu là tạo cho văn bản văn xuôi tính nhạc điệu hay âm hưởng thơ.

3.2 Lặp ngữ pháp
Phương thức ‘lặp ngữ pháp’ thể hiện ở việc lặp lại một hay một số yếu tố ngữ pháp của một phát ngôn ở một phát ngôn khác để tạo ra sự liên kết giữa chúng.
Như vậy, lặp ngữ pháp bao gồm ‘lặp từ ngữ pháp’ (còn gọi là ‘lặp hư từ’) và ‘lặp cấu trúc ngữ pháp’ (còn gọi là ‘lặp cú pháp’) của các phát ngôn. Thông thường, để tăng thêm độ liên kết của hai phát ngôn, người ta kết hợp sử dụng cả hai phương thức này, nghĩa là lặp cả cấu trúc ngữ pháp và hư từ. Có thể quan sát thấy những trường hợp sau:

(i) Chỉ lặp cấu trúc ngữ pháp, ví dụ:
“Từng ngày, mẹ thầm đoán con đã đi đến đâu. Từng giờ, mẹ thầm hỏi con đang làm gì.” (Nguyễn Thị Như Trang. Tiếng mưa).

(ii) Chỉ lặp từ ngữ pháp, ví dụ:
“Nước Việt Nam muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng qúy, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa.” (Thép Mới – Cây tre)

(iii) Lặp cấu trúc và từ ngữ pháp, ví dụ:
Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì không ai dẫn đường.” (Hồ Chí Minh).

Kiểu lặp này rất phổ biến trong các văn bản tiếng Việt, nhất là các văn bản cổ.
Nói chung, trong trường hợp này, lặp cú pháp là phương thức cơ bản. Và, như đã nói ở trên, lặp cấu trúc có thể được kết hợp với lặp ngữ âm. [trường hợp (iii)].
Cũng giống như ở phương thức lặp ngữ âm, ở đây cũng có thể có ‘lặp hoàn toàn’ và ‘lặp một phần’.

(còn nữa)

Posted in Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , , , | Leave a Comment »

Một số vấn đề về ngữ pháp văn bản tiếng Việt (tóm tắt)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 18, 2012

Lê Đình Tư

1. Tổng quan

1.1 Ngữ pháp văn bản, ngôn ngữ học văn bản và văn bản học

Ngữ pháp học truyền thống, trong khi chỉ quan tâm đến những đơn vị ngôn ngữ trong phạm vi câu, chưa đi sâu nghiên cứu chức năng giao tiếp của ngôn ngữ cũng như quá trình tiếp nhận và tạo lập các tín hiệu giao tiếp bằng ngôn ngữ, do đó không đủ khả năng giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi câu nhưng lại có liên quan đến những cơ chế ngoài câu như điệp, đối, việc lựa chọn các quán từ, vai trò của đại từ, từ nối, các mối liên kết giữa các câu, v.v. Điều này khiến cho nó không đáp ứng được các nhu cầu thực tiễn trong phân tích tác phẩm văn học hay phân tích và xây dựng các loại văn bản khác nhau.

Ngữ pháp văn bản ra đời nhằm giải quyết những hạn chế của ngữ pháp trong phạm vi câu. Tuy nhiên, cách gọi tên bộ môn ngôn ngữ học này trong tiếng Việt có phần không chính xác, không phản ánh đúng quan niệm được chấp nhận trong ngôn ngữ học Âu châu, bởi vì thuật ngữ văn bản (text) của các ngôn ngữ Âu châu có thể gây ra sự hiểu nhầm trong tiếng Việt, nơi mà thuật ngữ này vẫn được hiểu theo nghĩa hẹp hơn: ‘sản phẩm ngôn ngữ viết’ hay ‘ngôn phẩm viết’. Do vậy, cần phải hiểu từ ‘văn bản’ theo nghĩa rộng hơn. Ở đây thuật ngữ ‘ngữ pháp văn bản’ bao hàm việc nghiên cứu văn bản không chỉ với tư cách là loại ngôn phẩm viết, mà còn cả với tư cách là những ngôn phẩm nói có cấu trúc của những chỉnh thể trên câu. Như vậy, với tư cách là một thuật ngữ ngôn ngữ học, ‘văn bản’ trong tiếng Việt từ nay cũng bao gồm cả những ngôn phẩm nói.

Ngữ pháp văn bản thường được dùng như là một thuật ngữ đồng nghĩa với ngôn ngữ học văn bản, tuy rằng ngôn ngữ học văn bản có phạm vi nghiên cứu rộng hơn, ví dụ như nó nghiên cứu cả những vấn đề siêu văn bản (hipertekst). Bên cạnh hai thuật ngữ tương đương này còn có một thuật ngữ khác dùng để chỉ một bộ môn khoa học khác nhưng đôi khi lại được dùng theo nghĩa giống như ngữ pháp văn bản, đó là văn bản học (tekstologia) (ví dụ: J. Bartmiński ). Tuy nhiên, theo cách hiểu của phần lớn các nhà ngôn ngữ học thì ‘ngữ pháp văn bản’ và ‘văn bản học’ là hai lĩnh vực khoa học khác nhau, vì quan tâm đến những vấn đề khác nhau: ‘văn bản học’ thường được dùng với nghĩa là ngành khoa học nghiên cứu các văn bản (chủ yếu là văn học) dưới góc độ so sánh nhằm tìm ra những thay đổi trong những văn bản đó. Mục đích chủ yếu của ‘văn bản học’ là phát hiện những chỗ sai sót hay khác biệt của các văn bản để xác định văn bản gốc và các dị bản, những chỗ sáng tạo trong văn bản, lai lịch của văn bản hoặc để phục vụ cho công việc biên tập.

1.2. Nghiên cứu ngữ pháp văn bản trên thế giới và ở Việt Nam
Ngữ pháp văn bản phát triển thành một bộ môn nghiên cứu độc lập trải qua 4 giai đoạn:

(i) Giai đoạn phi ngôn ngữ học: trước năm 30 của thế kỷ XX. Đó là giai đoạn nghiên cứu văn bản một cách rời rạc, chưa có sự định hướng ngôn ngữ học. Các nghiên cứu văn bản trong suốt thời gian này chủ yếu phục vụ cho những lĩnh vực nghiên cứu có liên quan đến văn bản như thuật hùng biện (ví dụ: các triết gia Hy Lạp cổ đại như Aristoteles, Quintillian) hay tu từ học.

(ii) Giai đoạn sơ khai: những năm 30 – 40 của thế kỷ XX. Đó là giai đoạn xuất hiện những công trình nghiên cứu văn bản ít nhiều có dịnh hướng ngôn ngữ học (ví dụ như của nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc Mathesius).

(iii) Giai đoạn tự khẳng định: những năm 50 – 60 của thế kỷ XX. Đây là giai đoạn hình thành và bổ sung các khái niệm cơ bản của ngữ pháp văn bản, xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu của nó. Trong giai đoạn này bắt đầu xuất hiện các tung tâm nghiên cứu ở Tiệp Khắc hay ở Liên Xô (cũ). Ngoài ra, các ý kiến chuyên môn của những tên tuổi lớn trong ngôn ngữ học như L. Hjemslev hay H. Weinrich cũng đã góp phần làm cho ngữ pháp văn bản trở thành một lĩnh vực nghiên cứu độc lập.

(iv) Giai đoạn phát triển mạnh mẽ: từ những năm 70 đến nay. Ở giai đoạn này, ngữ pháp văn bản đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Người ta đã xây dựng và hoàn thiện được hệ thống khái niệm cơ bản, khẳng định văn bản là đơn vị lớn nhất của ngôn ngữ. Bên cạnh đó, ngữ pháp văn bản trong giai đoạn hiện tại không còn bị giới hạn trong việc nghiên cứu cấu trúc nội tại của văn bản mà còn mở rộng phạm vi nghiên cứu tới những đặc trưng hướng ngoại của nó. Xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa các kiểu ứng xử và những đặc trưng xã hội hoặc văn hóa của con người, ví dụ: Trường phái Anh-Mỹ (Halliday, Hymes), các công trình nghiên cứu về ngữ dụng (Grice), hay phân tích hội thoại (Goffman, Jefferson).

Ở Việt Nam, nghiên cứu về ngữ pháp văn bản còn chưa có nhiều, tuy rằng cũng đã thu được những kết quả nhất định, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu về tính liên kết (Kohezja) của văn bản (ví dụ: Trần Ngọc Thêm) và tính mạch lạc (Koherencja) văn bản (ví dụ: Diệp Quang Ban). Cũng đã có một số nhà nghiên cứu (ví dụ: Đỗ Hữu Châu) bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu cấu trúc hướng ngoại của văn bản. Ngoài ra, có một số nhà nghiên cứu (ví dụ: Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú) vẫn tiếp tục đường hướng nghiên cứu về phong cách của văn bản.

2. Khái niệm về văn bản và văn bản tiếng Việt

2.1 Một vài quan niệm về văn bản
Thuật ngữ ‘văn bản’ trong các ngôn ngữ Ấn-Âu đều bắt nguồn từ chữ La-tinh ‘textus’ có nghĩa là ‘dây bện, vải’. Trong ngôn ngữ học, ‘văn bản’ đã được định nghĩa theo những cách khác nhau. Trên địa bàn tiếng Việt chẳng hạn, Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Văn bản … là một thể thống nhất toàn vẹn được xây dựng theo những quy tắc nhất định”. Hữu Đạt thì cho rằng: “Văn bản là một tập hợp các câu (hay phát ngôn) được kết hợp với nhau theo một phương thức nhất định đảm bảo cho việc truyền đạt thông tin có hiệu quả và chính xác.” Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm có phần đơn giản hơn: Văn bản là chỉnh thể thống nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức. Nhưng ông cũng khẳng định thêm: “Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu–phần từ, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.”.
Hiện nay, trong tiếng Việt, ‘văn bản’ được quan niệm là đơn vị cao nhất của ngôn ngữ. Đó là một chỉnh thể gồm một hay nhiều đoạn văn được liên kết chặt chẽ với nhau để thể hiện một nội dung hoàn chỉnh chung.

2.2 Các bình diện của văn bản
Văn bản là một chỉnh thể, trong đó có thể phân biệt ba bình diện:

(i) Bình diện ngữ kết (hay cấu tạo hình thức)
Đó là bình diện liên quan đến sự liên kết hình thức của các đơn vị ngôn ngữ như các yếu tố ngữ âm, các đơn vị từ vựng, các cách kết hợp mệnh đề và các cách liên kết câu. Bình diện này làm nên tính liên kết của văn bản.

(ii) Bình diện ngữ nghĩa (hay cấu tạo nội dung)
Bình diện này liên quan đến sự liên kết các đơn vị có nghĩa (hình vị, từ, câu) để thể hiện một thông điệp nhằm đạt được một ý định giao tiếp. Xét về mặt này, văn bản là một thể thống nhất về nội dung và tính lôgích. Bình diện này làm nên tính mạch lạc của văn bản.

(iii) Bình diện ngữ dụng
Đó là bình diện liên quan đến những yếu tố tham gia vào việc truyền tải và tiếp nhận văn bản: người nói, nguời nghe, hoàn cảnh giao tiếp, và đến ý định thông báo của người nói. Bình diện này liên quan đến đặc điểm hay chủng loại phong cách của văn bản .

(còn nữa)
___________________________________________________

Posted in Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , , , | 1 Comment »