TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Archive for Tháng Tám, 2010

Ý nghĩa ngữ pháp của từ (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tám 29, 2010

3.2.6. Phạm trù thức

Khi tiến hành các hoạt động nói năng, chúng ta bao giờ cũng đưa vào trong các phát ngôn những mối quan hệ của mình đối với người nghe, hoặc đối với nội dung của phát ngôn hay với hiện thực khách quan. Các mối quan hệ đó có thể là chủ quan, nghĩa là chúng ta muốn thông qua nội dung câu nói để nêu lên những thắc mắc, nguyện vọng, yêu cầu hay sự đánh giá của mình, hoặc là khách quan, khi chúng ta đơn thuần chỉ muốn nêu lên, miêu tả lại, hay tường thuật lại sự vật, sự việc tồn tại trong thực tế khách quan. Để thể hiện hai loại quan hệ đó, các ngôn ngữ có thể sử dụng những phương thức khác nhau, trong đó có một phương thức khá phổ biến là biến đổi dạng thức của động từ. Khi ấy, căn cứ vào dạng thức của động từ ta có thể biết được quan hệ của người nói với nội dung câu nói. Sự thay đổi dạng thức của động từ để thể hiện mối quan hệ giữa người nói và nội dung câu nói như vậy chính là ý nghĩa thức và việc khái quát hóa loại ý nghĩa này sẽ cho ta phạm trù thức. Đây cũng là phạm trù ngữ pháp của động từ.

Thông thường, những ngôn ngữ có phạm trù thức thường phân biệt 3 thức:

– Thức trần thuật

Đó là thức biểu thị mối quan hệ khách quan, trung hoà của người nói với nội dung câu nói. Thức này của động từ không có dạng thức biểu thị riêng, nó trùng với dạng thức biểu thị ngôi và thời của động từ.

-Thức mệnh lệnh

Đây là thức biểu thị mối quan hệ chủ quan của người nói với nội dung câu nói: nêu lên yêu cầu hay mệnh lệnh thực hiện hành động của người nói đối với người nghe. Thức này được thể hiện bằng những dạng thức riêng của động từ. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, thức mệnh lệnh của động từ ‘txitat’’ (đọc) là ‘txitaj’ (số ít) và ‘txitajt’e’ (số nhiều).

-Thức điều kiện hay giả định

Đây cũng là thức biểu thị mối quan hệ chủ quan của người nói đối với nội dung câu nói, nhằm nêu lên sự đánh giá chủ quan của người nói đối với khả năng xảy ra hành động hay sự kiện được đề cập tới trong câu nói (không chắc chắn xảy ra hoặc có thể xảy ra với một điều kiện nào đó). Thức này cũng được thể hiện bằng cấu tạo hình thái của động từ. Chẳng hạn, trong tiếng Pháp, thức giả định của động từ được phân thành hai thức bộ phận, đó là: 1/ thức giả định hiện tại, ví dụ: thức giả định hiện tại của động từ ‘aller’ (đi) là ‘que j’aille’, ‘que tu ailles’, và 2/ thức giả định quá khứ, chẳng hạn thức giả định quá khứ của động từ ‘aller’ đã dẫn ra ở trên là : ‘que j’allasse’, ‘que tu allasses’, v.v…, hay như trong tiếng Anh, thức điều kiện của động từ ‘can’(có thể) là ‘could’ của ‘be’ là ‘would’.

Tuy nhiên, số lượng thức trong ngôn ngữ có thể nhiều hơn. Chẳng hạn, ở một số ngôn ngữ, người ta phân biệt thức cầu khiến và thức mệnh lệnh. Do đó, số lượng thức không phải là ba mà là bốn (ví dụ như tiếng Hy Lạp).

3.2.7. Phạm trù thể

Khi trong một ngôn ngữ, các dạng thức khác nhau của động từ được dùng để biểu thị sự đối lập về tính hoàn thành hay không hoàn thành (đã cho biết hay chưa cho biết kết quả) của hành động hay hoạt động thì ta có phạm trù thể. Như vậy, phạm trù thể cũng là phạm trù ngữ pháp của động từ.

Đây là phạm trù dùng để biểu thị tính chất hay quá trình của hành động hoặc hoạt động.

Những ngôn ngữ có phạm trù thể thường phân biệt 2 thể:

– Thể không hoàn thành

Đó là thể dùng để biểu thị những hành động, hoạt động hay trạng thái đang diễn ra trong thời gian (có thể ở thời hiện tại, quá khứ hoặc tương lai). Ví dụ: trong tiếng Nga, động từ ‘pixat’’ (viết) là động từ không hoàn thành, do vậy nó luôn luôn biểu thị hành động hay hoạt động đang được khai triển, bất luận hành động hay hoạt động đó diễn ra trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai, so sánh:’ ja pisu’ (tôi đang viết), ‘ja pixal’ (tôi đã viết, nhưng chưa xong), ‘ja budu pixat’’ (tôi sẽ viết, nhưng không biết kết quả).

– Thể hoàn thành

Đây là thể dùng để biểu thị những hành động hay hoạt động được hiểu là đã kết thúc hay đã cho ta biết kết quả (có thể trong quá khứ, ở hiện tại hoặc trong tương lai). Chẳng hạn, động từ ‘napixat’’ (viết) của tiếng Nga là động từ thể hoàn thành, do đó nó luôn luôn biểu thị hành động đã được thực hiện xong, cho dù hành động này diễn ra trong quá khứ hay tương lai, so sánh: ‘ja napixal’ (tôi đã viết xong), ‘ja napisu’ (tôi sẽ viết xong). Như vậy, phạm trù thể gắn bó chặt chẽ với phạm trù thời, song giữa hai phạm trù này vẫn có sự khác nhau cơ bản: các thời được phân biệt trên cơ sở quan hệ với một thời điểm mốc (thời điểm quy chiếu), còn các thể lại được định hướng vào thời điểm kết thúc hay kết quả của hành động.

Trong thực tế, phạm trù thể có quan hệ chặt chẽ với phạm trù thời. Nói chung, có nhiều ngôn ngữ biến hình thường lồng ý nghĩa thể vào phạm trù thời. Do đó, người ta nhận thấy rằng, những ngôn ngữ có phạm trù thời nghèo nàn hơn, tức là có số lượng thời ít hơn (như các ngôn ngữ Xlavơ chẳng hạn), thường sử dụng phạm trù thể một cách tường minh, và ngược lại, ở những ngôn ngữ không có phạm trù thể, phạm trù thời thường phong phú hơn, nghĩa là có nhiều thời hơn (như tiếng Anh và tiếng Pháp).

Tuy nhiên, vấn đề này hiện vẫn chưa có những kết luận dứt khoát.

3.2.8. Phạm trù dạng

Trong một phát ngôn, ta thường phân biệt hai yếu tố liên quan đến động từ: chủ ngữ ngữ pháp và đối tượng của hành động. Chủ ngữ ngữ pháp có thể là chủ thể của hành động nhưng cũng có thể là đối tượng của hành động. Mối quan hệ giữa hành động, chủ thể hành động và đối tượng của hành động có thể được biểu thị bằng những dạng thức khác nhau của động từ và khi ấy, căn cứ vào dạng thức của động từ, ta có thể biết được chủ ngữ ngữ pháp là tác nhân gây ra hành động hay là đối tượng chịu sự tác động của chính hành động ấy. Sự biểu thị mối quan hệ giữa chủ thể và hành động thông qua các dạng thức khác nhau của động từ chính là bằng chứng về sự tồn tại của phạm trù dạng.

Thông thường, các ngôn ngữ phân biệt hai dạng của động từ:

Dạng chủ động của động từ được sử dụng khi chủ ngữ ngữ pháp đồng thời cũng là chủ thể hay tác nhân của hành động, còn bổ ngữ là điểm hướng tới của hành động. Dạng chủ động thường không có dạng thức biểu thị riêng mà thường trùng với dạng thức của thời và ngôi. Ví dụ, trong câu sau của tiếng Anh: “The teacher called Nam” (Thầy giáo đã gọi Nam), thì “the teacher” (thầy giáo) vừa là chủ ngữ ngữ pháp vừa là tác nhân của hành động, nên động từ ‘call’ (gọi) có dạng chủ động (called).

Dạng bị động của động từ được sử dụng khi chủ ngữ ngữ pháp và chủ thể của hành động không trùng nhau: chủ ngữ ngữ pháp là đối tượng chịu tác động của hành động do một chủ thể khác gây ra. Ví dụ: Trong ví dụ đã dẫn ở trên, nếu ta muốn thể hiện chủ ngữ ngữ pháp (Nam) là đối tượng chịu sự tác động của hành động do chủ thể (teacher) gây ra thì ta có thể biến đổi động từ ‘call’ sang dạng bị động và khi ấy ta có câu sau: “Nam was called by the teacher” (Nam đã được thầy giáo gọi).

Ngoài hai ‘dạng’ trên, người ta còn nói tới dạng phản thân của động từ. Dạng phản thân được sử dụng trong những tình huống, khi chủ thể gây ra hành động đồng thời cũng là chủ thể chịu sự tác động của chính hành động đó. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, các động từ như ‘mưt’xia’ (rửa), ‘otdavat’xia’ (hiến mình), ‘otdaliat’xia’ (rời xa) là dạng phản thân của các động từ ‘mưt’’, ‘otdavat’’, ‘otdaliat’’.

Trong các ngôn ngữ không biến hình, ý nghĩa dạng thường được thể hiện bằng các từ công cụ (thường được gọi là hư từ). Như trong tiếng Việt chẳng hạn, dạng bị động thường được thể hiện bằng hai từ là ‘bị’; và ‘được’, kèm theo sự đánh giá tiêu cực hoặc tích cực đối với sự việc đang được đề cập tới, so sánh:

Cảnh sát bắt nó/Nó bị cảnh sát bắt.
Họ tặng hoa cho cô ấy/Cô ấy được họ tặng hoa.

_________________________________________________

Posted in Ngữ pháp học, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , , , , , , , , , , | Leave a Comment »

Ý nghĩa ngữ pháp của từ (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tám 21, 2010

3.2.4. Phạm trù ngôi

Trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ, ta thường phân biệt 3 ‘ngôi’ hay ‘vai giao tiếp’:

Ngôi thứ nhất: người nói
Ngôi thứ hai: người nghe
Ngôi thứ ba: đối tượng được đề cập tới

Một trong ba ngôi đó có thể là chủ thể của hành động, hoạt động hay trạng thái được biểu thị bằng những động từ tương ứng. Để thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể của hành động và hành động, các ngôn ngữ có thể kết hợp đại từ nhân xưng với động từ theo một trật tự nhất định (ví dụ trong tiếng Việt: “Anh ấy học tiếng Anh”), hoặc sự biến đổi dạng thức của động từ. Ví dụ trong tiếng Nga: động từ ‘idti’ (đi) được biến đổi tương ứng theo các ngôi sau:

(Ja) idu (tôi đi) (mư) id’iom
(tư) id’ios’ (anh đi) (vư) id’iot’e
(on) id’iot (nó đi) (oni) idut

Sự biến đổi dạng thức của động từ theo ngôi của chủ thể hành động hay hoạt động chính là ý nghĩa ngôi và sự khái quát hoá ý nghĩa ngôi đó gọi là phạm trù ngôi. Như vậy, phạm trù ngôi là phạm trù dùng để thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể hành động và hành động: chủ thể ở ngôi nào thì động từ biểu thị hành động cũng được biến đổi theo ngôi đó. Tuy nhiên cấu trúc của phạm trù ngôi trong các ngôn ngữ có thể rất khác nhau. Ở một số ngôn ngữ, như tiếng Nga hay tiếng Ba Lan, khi biểu thị hành động hay hoạt động đang diễn ra ở thời điểm nói năng, người ta phân biệt ít nhất 6 dạng thức khác nhau (tương ứng với 3 ngôi và 2 số) của động từ. Trong khi đó thì ở một số ngôn ngữ khác, số lượng các dạng thức của động từ có thể ít hơn, ví dụ: Trong tiếng Anh, động từ ‘read’ (đọc) chỉ có 2 dạng thức ngôi khác nhau: ‘read’ (chung cho các ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba số nhiều và ‘reads’ (dùng cho ngôi thứ ba số ít). Trong tiếng Pháp, động từ ‘parler’ (nói) xét về mặt chữ viết thì có 5 dạng thức khác nhau, nhưng xét về mặt âm thanh thì chỉ phân biệt được 3 dạng thức mà thôi, so sánh:
je parle nous parlons
tu parles vous parlez
il parle ils parlent

Như vậy, một số dạng thức của động từ thể hiện không phải chỉ một ngôi mà có thể hai hay nhiều ngôi khác nhau. Hiện tượng này có thể còn có một lý do khác: chuyển ngôi để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói. Chẳng hạn trong tiếng Nga, dạng thức ngôi thứ hai số nhiều của động từ có thể được dùng để thể hiện ngôi thứ hai số ít, khi người ta muốn bầy tỏ sự tôn trọng đối với người nghe; hay ở một số ngôn ngữ khác, dạng thức ngôi thứ ba của động từ có thể được dùng thay cho ngôi thứ hai (ví dụ trong tiếng Ba Lan, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp), với mục đích biểu thị sự kính trọng hoặc quan hệ xã hội giữa người nói và người nghe.

3.2.5. Phạm trù thời

Thông thường, các sự kiện đều diễn ra trên dòng thời gian. Để định vị các sự kiện trên dòng thời gian ấy, các ngôn ngữ thường lấy một thời điểm nào đó làm chuẩn và các sự kiện được xác định trên cơ sở của thời điểm chuẩn đó. Ta gọi đó là thời của hành động, hoạt động hay trạng thái. Nói chung, các ngôn ngữ thường lấy thời điểm nói làm chuẩn và do đó, thường phân biệt ba thời cơ bản. Đó là:

Thời hiện tại, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra cùng với thời điểm nói;
Thời quá khứ, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra trước thời điểm nói;
Thời tương lai, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra sau thời điểm nói.

Sự phân biệt thời như vậy gọi là thời tuyệt đối. Để biểu thị các thời tuyệt đối, các ngôn ngữ có thể sử dụng những phương thức khác nhau. Trong tiếng Việt, ta thường dùng từ “đang” để biểu thị thời hiện tại, từ “đã” để biểu thị thời quá khứ và từ “sẽ” để biểu thị thời tương lai. Song trong nhiều ngôn ngữ, người ta lại thể hiện các mối quan hệ này bằng cách biến đổi dạng thức của động từ: động từ biểu thị hành động, hoạt động hay trạng thái diễn ra ở thời điểm nào thì nó sẽ được biến đổi theo những hệ biến thái đặc trưng cho thời đó. Ví dụ: Động từ ‘pixat’ (viết) trong tiếng Nga được biến đổi qua các thời tuyệt đối như sau:

thời hiện tại thời quá khứ thời tương lai

ja pisu ja pixal ja budu pixat’
tư pises’ tư pixal tư bud’es’ pixat’
on piset on pixal on bud’et pixat’, v.v…

Sự biến đổi dạng thức của động từ để thể hiện mối quan hệ giữa thời gian xảy ra hành động và thời điểm nói như trên được gọi là ý nghĩa thời hoặc phạm trù thời. Như vậy, phạm trù thời là phạm trù ngữ pháp của động từ. Do đó, trong những ngôn ngữ như tiếng Việt, động từ không biến đổi dạng thức để thể hiện ý nghĩa thời cho nên không có phạm trù thời theo đúng nghĩa của nó.

Trong thực tế, ngoài thời tuyệt đối, các ngôn ngữ còn phân biệt các thời tương đối. Thời tương đối được xác định không phải trên cơ sở của mối quan hệ giữa thời gian của sự kiện đang được đề cập tới trong phát ngôn và thời điểm nói mà là trên cơ sở mối quan hệ với một thời tuyệt đối nào đấy đang được sử dụng trong phát ngôn (tức là thời hiện tại, thời quá khứ hoặc thời tương lai). Khi ấy, thời hiện tại biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra đồng thời với một hành động hay hoạt động khác, thời quá khứ biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra trước một hành động khác, còn thời tương lai thì biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra sau một hành động hay hoạt động khác. Chẳng hạn, trong câu tiếng Anh: “He said he would come” thì ‘would come’ là thời tương lai tương đối vì nó biểu thị hành động xảy ra sau hành động ‘said’ (đã nói), tức là thể hiện mối quan hệ giữa hai hành động trong phát ngôn, chứ không phải là mối quan hệ giữa thời gian xảy ra hành động và thời điểm nói. Sự phân biệt các thời tương đối bằng những dạng thức khác nhau của động từ làm cho số lượng các thời trong các ngôn ngữ không giống nhau. Chẳng hạn các thứ tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Anh có nhiều thời hơn so với những thứ tiếng như Nga, Séc hay Ba Lan. Ngược lại, cũng có những ngôn ngữ lại không khai thác hết khả năng lý thuyết của phạm trù thời, và chỉ phân biệt hai thời mà thôi (ví dụ: tiếng Gốt hay tiếng Ả Rập).

(còn nữa)
________________________________________________

Posted in Ngữ pháp học, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

Ý nghĩa ngữ pháp của từ (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tám 13, 2010

3. Ý nghĩa ngữ pháp và phạm trù ngữ pháp

3.1. khái niệm

Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa chung cho nhiều từ và do đó ta có thể khái quát hoá các loại ý nghĩa ngữ pháp thành các phạm trù và gọi là phạm trù ngữ pháp. Tuy nhiên, không phải ở tất cả các ngôn ngữ, các loại ý nghĩa ngữ pháp nêu trên đều có thể được khái quát hoá thành phạm trù ngữ pháp, nghĩa là không phải trong tất cả các ngôn ngữ đều có đầy đủ các phạm trù ngữ pháp hoặc có các phạm trù ngữ pháp giống nhau. Thông thường, ta có thể khẳng định sự tồn tại của một phạm trù ngữ pháp trong một ngôn ngữ nào đó trên cơ sở của 3 thông số: 1/ Loại ý nghĩa ngữ pháp đó phải bao gồm ít nhất hai ý nghĩa ngữ pháp bộ phận đối lập nhau, ví dụ như sự đối lập giữa số ít và số nhiều trong phạm trù số; 2/ Loại ý nghĩa ngữ pháp đó phải được biểu thị bằng những hình vị ngữ pháp chung cho một loạt từ có cùng ý nghĩa ngữ pháp, ví dụ như vĩ tố [-a] trong các danh từ giống cái tiếng Nga chẳng hạn; 3/ Ý nghĩa ngữ pháp đó phải có giá trị trong việc kết hợp từ, tức là có ảnh hưởng tới và/hoặc chịu ảnh hưởng của những từ khác trên dòng lời nói, xét về mặt biến đổi hình thái, ví dụ: trong tiếng Nga, giống của một danh từ có ảnh hưởng tới sự lựa chọn các dạng thức của những từ được kết hợp với nó, như tính từ hoặc động từ chẳng hạn [so sánh: ‘kraxivưi dom’ (ngôi nhà đẹp)/’kraxivaja d’evuska’ (cô gái đẹp)]. Tuy nhiên, tiêu chí thứ ba thường không được nhắc đến nhiều trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp gần đây, vì rằng ở các ngôn ngữ không biến hình, không có ý nghĩa ngữ pháp nào có ảnh hưởng thực sự đến việc kết hợp từ, do đó nếu áp dụng tiêu chí này thì hầu như xác định được ý nghĩa ngữ pháp trong những ngôn ngữ đó. Chính vì lí do này nên có một số nhà ngôn ngữ học cho rằng trong các ngôn ngữ đơn lập không có các phạm trù ngữ pháp theo đúng nghĩa. Đây là vấn đề còn đang tranh cãi và cần phải được nghiên cứu sâu thêm.

Cũng cần phải nói thêm rằng, một hình vị ngữ pháp có thể biểu thị nhiều ngữ pháp khác nhau, ví dụ: hình vị [-a] nêu trên trong tiếng Nga cùng một lúc có thể biểu thị bốn ý nghĩa ngữ pháp: ý nghĩa từ loại (danh từ), ý nghĩa giống (giống cái), ý nghĩa số (số ít) và ý nghĩa cách (chủ cách hay nguyên cách), song hình vị [-s] của từ ‘books’ trong tiếng Anh lại chỉ thể hiện hai ý nghĩa ngữ pháp: ý nghĩa ‘danh từ’ và ý nghĩa ‘số nhiều’.

Như vậy, phạm trù ngữ pháp là sự khái quát hoá của một loại ý nghĩa ngữ pháp bao gồm ít nhất hai yếu tố đối lập nhau, được thể hiện ra bằng những dấu hiệu hình thức mà nhờ đó ta có thể nhận biết được ý nghĩa ngữ pháp, và có giá trị đối với việc kết hợp từ. Có thể hiểu ý nghĩa ngữ pháp là cái cụ thể mà ta tìm ra được nhờ việc đối lập các từ hoặc các dạng thức khác nhau của cùng một từ cụ thể, còn phạm trù ngữ pháp là cái chung, được khái quát hoá lên từ nhiều ý nghĩa ngữ pháp cụ thể giống nhau của các từ. Bởi vậy, nói chung, trong một ngôn ngữ có bao nhiêu loại ý nghĩa ngữ pháp thì ta có thể khái quát hoá được bấy nhiêu phạm trù ngữ pháp.

3.2. Các phạm trù ngữ pháp chủ yếu

Thông thường, khi nói đến các phạm trù ngữ pháp, người ta thường nghĩ trước hết đến những phạm trù sau đây:

3.2.1. Phạm trù giống

Sự khái quát hoá ý nghĩa giống của các từ cho ta phạm trù giống. Tuy nhiên, khi nói đến phạm trù giống, ta phải hiểu đây là giống ngữ pháp chứ không phải, hoặc không nhất thiết phải là giống tự nhiên của sự vật/ hiện tượng. Việc phân biệt giống của một số sự vật theo giới tính tự nhiên là hiện tượng mang tính phổ quát, nghĩa là trong tất cả các ngôn ngữ đều có thể có sự phân biệt đó. Song, không phải trong bất cứ ngôn ngữ nào sự phân biệt này cũng có ảnh hưởng đến việc kết hợp từ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, mặc dù ta có thể tìm thấy một số từ biểu thị giống đực và giống cái của động vật hoặc người (ví dụ: gà trống/ gà mái/ đàn ông/ đàn bà) nhưng đó chỉ là sự phân biệt theo giới tính tự nhiên và sự phân biệt này không có ảnh hưởng gì đến sự kết hợp các từ; chẳng hạn, so sánh: gà trống đẹp/ gà mái đẹp. Mặt khác, do áp dụng quy tắc sử dụng ‘giống’ trong việc kết hợp từ nên ở những ngôn ngữ có phạm trù giống, người ta buộc phải quy định giống cho tất cả các danh từ. Đối với nhiều từ, sự quy định này không có cơ sở trong thực tế khách quan mà chỉ mang tính quy ước, áp đặt, do đó có thể khác nhau trong các ngôn ngữ. Chẳng hạn, xét về số lượng, tiếng Nga, tiếng Đức phân biệt ba giống: giống đực, giống cái và giống trung, song tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha lại chỉ phân biệt hai giống là giống đực và giống cái. Chính vì vậy, một từ trong trong tiếng Nga là giống trung thì dĩ nhiên từ tương đương với nó trong tiếng Pháp phải là giống đực hay giống cái. Ví dụ: trong tiếng Nga, từ ‘moloko’ (sữa) là giống trung, nhưng từ tương đương với nó trong tiếng Pháp là ‘lait; lại là giống đực, còn trong tiếng Tây Ban Nha thì từ ‘leche’ (sữa) lại là giống cái. Vả lại, ngay cả khi hai ngôn ngữ có cùng một phạm trù giống thì sự quy ước giống đó cho các từ cũng có thể không trùng nhau. Chẳng hạn, từ ‘vesna’ (mùa xuân) trong tiếng Nga được quy định là giống cái, nhưng từ tương đương với nó trong tiếng Pháp ‘le printemps’ lại là giống đực. Đó là do sự quy định ‘giống’ cho các từ trong những trường hợp này chỉ mang tính áp đặt.

Như vậy, phạm trù giống là phạm trù dùng để phân loại tên gọi của các sự vật, hiện tượng vì các mục đích kết hợp từ (hay còn gọi là mục đích cú pháp). Đương nhiên, một ngôn ngữ có phạm trù giống của danh từ thì cũng có thể có phạm trù giống của tính từ, động từ, đại từ hoặc số từ, tức là những từ chịu sự chi phối của danh từ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả những từ loại nêu trên đều phải có phạm trù giống. Chẳng hạn, tiếng Nga có phạm trù giống của danh từ, tính từ, động từ, đại từ, số từ, nhưng tiếng Pháp lại chỉ có phạm trù giống của danh từ, tính từ, số từ và đại từ mà không có phạm trù giống của động từ.

3.2.2. Phạm trù số

Sự khái quát hoá ý nghĩa số của các từ cho ta phạm trù số. Cũng giống như ở phạm trù giống, khi nói đến phạm trù số, ta phải hiểu đây là phạm trù dùng để phân biệt số lượng khác nhau của sự vật hay hiện tượng nhằm các mục đích kết hợp từ. Trong thực tế khách quan, các sự vật hay hiện tượng có thể tồn tại đơn lẻ hoặc ở trong một tập hợp gồm nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Để biểu thị tính chất đơn lẻ hay tính chất tập hợp đó, các ngôn ngữ có thể sử dụng những phương tiện khác nhau. Chẳng hạn, tiếng Việt dùng các từ như ‘những’, ‘các’, ‘mọi’ để biểu thị tính chất tập hợp, còn ‘một’, ‘mỗi’, ‘từng’ để biểu thị tính chất đơn lẻ, trong khi đó thì ở tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp hay tiếng Đức, người ta dùng sự biến đổi hình thái của từ, ví dụ như thêm hình vị vào sau danh từ (chẳng hạn, trong tiếng Anh, người ta thường thêm hình vị [-s ]vào sau phần lớn các danh từ) và/hoặc biến đổi hình vị theo hệ biến thái đặc trưng cho một loại từ nhất định (ví dụ như biến đổi [-a[ thành [-i], hay [-o] thành [-a] trong các danh từ tiếng Nga chẳng hạn). Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản giữa tiếng Việt và các thứ tiếng nêu trên là ở chỗ: Tính chất đơn lẻ hay tính chất tập hợp của các từ trong tiếng Việt không chi phối các từ khác trên dòng lời nói. Chẳng hạn, danh từ trong tiếng Việt không có ảnh hưởng gì đến các tính từ hoặc động từ đi theo chúng, trong khi đó thì ở các ngôn ngữ kia, động từ hoặc tính từ đi theo danh từ buộc phải biến đổi hình thái cho phù hợp với đặc điểm về số lượng của các danh từ, ví dụ trong tiếng Anh:

The book is there on the table (quyển sách ở trên bàn)
The book are there on the table (các quyển sách ở trên bàn),

hoặc trong tiếng Pháp:
la maison (một cái nhà)
les maisons (những cái nhà).

Sự biểu thị tính chất đơn lẻ hoặc tính chất tập hợp của các từ bằng cách biến đổi hình thái của từ như đã trình bày ở trên chính là ý nghĩa số và phạm trù ngữ pháp được khái quát hóa từ các ý nghĩa số đó gọi là phạm trù số.

Thông thường, người ta phân biệt hai số:

1) Số ít – dùng để biểu thị những sự vật đơn lẻ;
2) Số nhiều – dùng để biểu thị những tập hợp sự vật hiện tượng gồm từ hai đơn vị trở lên. Ví dụ, trong tiếng Anh:
Số ít Số nhiều

street (đường phố) streets
city (thành phố) cities
student (sinh viên) students

Tuỳ theo từng ngôn ngữ, phạm trù số có thể là phạm trù của danh từ, động từ, tính từ, đại từ và số từ. Trong một số ngôn ngữ (như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha), phạm trù số còn được thể hiện ở quán từ (ví dụ: le/les, une/des tiếng Pháp), nhưng ngược lại, cũng có nhiều ngôn ngữ (như tiếng Việt, tiếng Khơme), ý nghĩa số không được thể hiện qua dạng thức của các từ mà được thể hiện bằng các phương tiện từ vựng (ví dụ như ‘một’, ‘những’, ‘các’ trong tiếng Việt), do đó ở những ngôn ngữ này, ý nghĩa số không phải là ý nghĩa ngữ pháp gắn liền với từ và ta không thể nói đến phạm trù số của các từ.

Ngoài số ít và số nhiều, trong một số ngôn ngữ (ví dụ như tiếng Hy Lạp hay một số thứ tiếng Xlavơ), người ta còn phân biệt số đôi. Đó là loại ý nghĩa dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng luôn ‘đi đôi’ với nhau, ví dụ như tai, mắt, tay v.v… . Đối với những danh từ này, người ta dùng một loại hình vị khác với hình vị số nhiều để biểu thị ý nghĩa số đôi. Ví dụ: Trong tiếng Ba Lan, từ ‘oko’ (con mắt) đáng lẽ có dạng thức là ‘oka’ ở số nhiều nhưng vì trong ngôn ngữ này người ta còn dùng số đôi nên dạng số nhiều của nó được thay đổi thành ‘oczy’. Tuy nhiên, ở hầu hết các ngôn ngữ hiện có sử dụng số đôi, thường thì đó chỉ là những mảnh vụn còn lại của một hệ thống số đôi phong phú trước đây.

3.2.3. Phạm trù cách

Khi kết hợp các từ với nhau, mỗi từ có một chức năng ngữ pháp riêng, được quy định bởi mối quan hệ của nó với các từ khác. Chẳng hạn, trong câu tiếng Việt: “Sinh viên đọc sách.”, thì ‘sinh viên’ giữ vai trò là chủ thể của hoạt động (do đó nó là chủ ngữ), còn ‘sách’ là đối tượng của hoạt động (do đó nó là bổ ngữ). Để thể hiện những mối quan hệ khác nhau này, tiếng Việt sử dụng trật tự của các từ, song trong nhiều ngôn ngữ (như tiếng Nga, tiếng Séc, tiếng Ba Lan), người ta lại sử dụng sự biến đổi hình thái của các từ, và do vậy, trật tự của các từ ở những ngôn ngữ này không nhất thiết phải nói lên chức năng ngữ pháp của chúng. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, câu “xtud’ent txitajet knigu” (sinh viên đọc sách), có thể đổi thành “knigu txitajet xtud’ent” mà ý nghĩa cơ bản của nó vẫn không thay đổi. Đó là vì dạng thức của từ ‘xtudent’ (dạng từ điển) luôn luôn cho ta biết rằng nó giữ vai trò chủ thể của hoạt động (và do đó nó là chủ ngữ), cho dù nó đứng ở đầu, ở giữa hay ở cuối câu cũng vậy; tương tự, dạng thức ‘knigu’ (được biến đổi từ dạng từ điển của nó là ‘kniga’) luôn luôn cho ta biết nó là đối tượng của hoạt động (và do đó nó luôn luôn là bổ ngữ). Sự biến đổi dạng thức của từ để thể hiện các mối quan hệ khác nhau giữa các từ trên dòng lời nói như trên gọi là ‘ý nghĩa cách’, và sự khái quát hoá ‘ý nghĩa cách’ của các từ gọi là phạm trù cách.

Tuy nhiên, trong thực tế, để thể hiện các chức năng ngữ pháp khác nhau, nhiều khi người ta không chỉ sử dụng các dấu hiệu hình thái biểu thị ‘cách’ mà còn sử dụng cả trật tự từ hoặc hư từ. Đó là những trường hợp, khi trong hệ biến cách của một từ có hai hay nhiều dạng thức trùng nhau, tuy chức năng ngữ pháp của nó khác nhau. Chẳng hạn: các danh từ chỉ bất động vật, các danh từ giống trung hoặc một số danh từ giống cái ở một số ngôn ngữ có thể có dạng thức giống nhau khi được dùng trong chức năng chủ ngữ và bổ ngữ. Trong tiếng Nga, dạng thức của danh từ chủ ngữ còn có thể trùng với dạng thức của danh từ vị ngữ. Trong những trường hợp này, vị trí của các từ và/hoặc sự có mặt của các hư từ cũng như ngữ cảnh của từ trở thành yếu tố quan trọng trong việc xác định chức năng ngữ pháp cụ thể của chúng. Chẳng hạn, hãy so sánh: “Mat’ liubit’ dotx’ (Mẹ yêu con gái) và “Dotx’ liubit’ mat’” (Con gái yêu mẹ) trong tiếng Nga.

Trong một ngôn ngữ, dạng thức trùng nhau trong hệ biến cách của danh từ càng nhiều thì vị trí của từ cũng như sự có mặt của các hư từ càng trở nên quan trọng và khó thay đổi. Chính vì vậy, ở những ngôn ngữ có phạm trù cách phong phú (tức là có nhiều ý nghĩa cách bộ phận), như các ngôn ngữ Xlavơ chẳng hạn, vai trò của vị trí từ cũng như của các hư từ khá mờ nhạt. Ngược lại, những ngôn ngữ có phạm trù cách nghèo nàn hoặc không có phạm trù cách, như tiếng Anh, tiếng Việt hay tiếng Hán, thì vai trò của vị trí từ cũng như của hư từ trở nên rất quan trọng.

Cũng giống như ở các phạm trù ngữ pháp khác của danh từ, cấu trúc phạm trù cách trong các ngôn ngữ không giống nhau: danh từ tiếng Anh có hai cách, tiếng Đức có 4 cách, tiếng Latinh có 5 cách, tiếng Nga có 6 cách, tiếng Séc và tiếng Ba Lan có 7 cách, còn tiếng Hungari có tới 24 cách.

(còn nữa)
______________________________________________

Posted in Ngữ pháp học, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , , , , , , , , | Leave a Comment »