3.2.6. Phạm trù thức
Khi tiến hành các hoạt động nói năng, chúng ta bao giờ cũng đưa vào trong các phát ngôn những mối quan hệ của mình đối với người nghe, hoặc đối với nội dung của phát ngôn hay với hiện thực khách quan. Các mối quan hệ đó có thể là chủ quan, nghĩa là chúng ta muốn thông qua nội dung câu nói để nêu lên những thắc mắc, nguyện vọng, yêu cầu hay sự đánh giá của mình, hoặc là khách quan, khi chúng ta đơn thuần chỉ muốn nêu lên, miêu tả lại, hay tường thuật lại sự vật, sự việc tồn tại trong thực tế khách quan. Để thể hiện hai loại quan hệ đó, các ngôn ngữ có thể sử dụng những phương thức khác nhau, trong đó có một phương thức khá phổ biến là biến đổi dạng thức của động từ. Khi ấy, căn cứ vào dạng thức của động từ ta có thể biết được quan hệ của người nói với nội dung câu nói. Sự thay đổi dạng thức của động từ để thể hiện mối quan hệ giữa người nói và nội dung câu nói như vậy chính là ý nghĩa thức và việc khái quát hóa loại ý nghĩa này sẽ cho ta phạm trù thức. Đây cũng là phạm trù ngữ pháp của động từ.
Thông thường, những ngôn ngữ có phạm trù thức thường phân biệt 3 thức:
– Thức trần thuật
Đó là thức biểu thị mối quan hệ khách quan, trung hoà của người nói với nội dung câu nói. Thức này của động từ không có dạng thức biểu thị riêng, nó trùng với dạng thức biểu thị ngôi và thời của động từ.
-Thức mệnh lệnh
Đây là thức biểu thị mối quan hệ chủ quan của người nói với nội dung câu nói: nêu lên yêu cầu hay mệnh lệnh thực hiện hành động của người nói đối với người nghe. Thức này được thể hiện bằng những dạng thức riêng của động từ. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, thức mệnh lệnh của động từ ‘txitat’’ (đọc) là ‘txitaj’ (số ít) và ‘txitajt’e’ (số nhiều).
-Thức điều kiện hay giả định
Đây cũng là thức biểu thị mối quan hệ chủ quan của người nói đối với nội dung câu nói, nhằm nêu lên sự đánh giá chủ quan của người nói đối với khả năng xảy ra hành động hay sự kiện được đề cập tới trong câu nói (không chắc chắn xảy ra hoặc có thể xảy ra với một điều kiện nào đó). Thức này cũng được thể hiện bằng cấu tạo hình thái của động từ. Chẳng hạn, trong tiếng Pháp, thức giả định của động từ được phân thành hai thức bộ phận, đó là: 1/ thức giả định hiện tại, ví dụ: thức giả định hiện tại của động từ ‘aller’ (đi) là ‘que j’aille’, ‘que tu ailles’, và 2/ thức giả định quá khứ, chẳng hạn thức giả định quá khứ của động từ ‘aller’ đã dẫn ra ở trên là : ‘que j’allasse’, ‘que tu allasses’, v.v…, hay như trong tiếng Anh, thức điều kiện của động từ ‘can’(có thể) là ‘could’ của ‘be’ là ‘would’.
Tuy nhiên, số lượng thức trong ngôn ngữ có thể nhiều hơn. Chẳng hạn, ở một số ngôn ngữ, người ta phân biệt thức cầu khiến và thức mệnh lệnh. Do đó, số lượng thức không phải là ba mà là bốn (ví dụ như tiếng Hy Lạp).
3.2.7. Phạm trù thể
Khi trong một ngôn ngữ, các dạng thức khác nhau của động từ được dùng để biểu thị sự đối lập về tính hoàn thành hay không hoàn thành (đã cho biết hay chưa cho biết kết quả) của hành động hay hoạt động thì ta có phạm trù thể. Như vậy, phạm trù thể cũng là phạm trù ngữ pháp của động từ.
Đây là phạm trù dùng để biểu thị tính chất hay quá trình của hành động hoặc hoạt động.
Những ngôn ngữ có phạm trù thể thường phân biệt 2 thể:
– Thể không hoàn thành
Đó là thể dùng để biểu thị những hành động, hoạt động hay trạng thái đang diễn ra trong thời gian (có thể ở thời hiện tại, quá khứ hoặc tương lai). Ví dụ: trong tiếng Nga, động từ ‘pixat’’ (viết) là động từ không hoàn thành, do vậy nó luôn luôn biểu thị hành động hay hoạt động đang được khai triển, bất luận hành động hay hoạt động đó diễn ra trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai, so sánh:’ ja pisu’ (tôi đang viết), ‘ja pixal’ (tôi đã viết, nhưng chưa xong), ‘ja budu pixat’’ (tôi sẽ viết, nhưng không biết kết quả).
– Thể hoàn thành
Đây là thể dùng để biểu thị những hành động hay hoạt động được hiểu là đã kết thúc hay đã cho ta biết kết quả (có thể trong quá khứ, ở hiện tại hoặc trong tương lai). Chẳng hạn, động từ ‘napixat’’ (viết) của tiếng Nga là động từ thể hoàn thành, do đó nó luôn luôn biểu thị hành động đã được thực hiện xong, cho dù hành động này diễn ra trong quá khứ hay tương lai, so sánh: ‘ja napixal’ (tôi đã viết xong), ‘ja napisu’ (tôi sẽ viết xong). Như vậy, phạm trù thể gắn bó chặt chẽ với phạm trù thời, song giữa hai phạm trù này vẫn có sự khác nhau cơ bản: các thời được phân biệt trên cơ sở quan hệ với một thời điểm mốc (thời điểm quy chiếu), còn các thể lại được định hướng vào thời điểm kết thúc hay kết quả của hành động.
Trong thực tế, phạm trù thể có quan hệ chặt chẽ với phạm trù thời. Nói chung, có nhiều ngôn ngữ biến hình thường lồng ý nghĩa thể vào phạm trù thời. Do đó, người ta nhận thấy rằng, những ngôn ngữ có phạm trù thời nghèo nàn hơn, tức là có số lượng thời ít hơn (như các ngôn ngữ Xlavơ chẳng hạn), thường sử dụng phạm trù thể một cách tường minh, và ngược lại, ở những ngôn ngữ không có phạm trù thể, phạm trù thời thường phong phú hơn, nghĩa là có nhiều thời hơn (như tiếng Anh và tiếng Pháp).
Tuy nhiên, vấn đề này hiện vẫn chưa có những kết luận dứt khoát.
3.2.8. Phạm trù dạng
Trong một phát ngôn, ta thường phân biệt hai yếu tố liên quan đến động từ: chủ ngữ ngữ pháp và đối tượng của hành động. Chủ ngữ ngữ pháp có thể là chủ thể của hành động nhưng cũng có thể là đối tượng của hành động. Mối quan hệ giữa hành động, chủ thể hành động và đối tượng của hành động có thể được biểu thị bằng những dạng thức khác nhau của động từ và khi ấy, căn cứ vào dạng thức của động từ, ta có thể biết được chủ ngữ ngữ pháp là tác nhân gây ra hành động hay là đối tượng chịu sự tác động của chính hành động ấy. Sự biểu thị mối quan hệ giữa chủ thể và hành động thông qua các dạng thức khác nhau của động từ chính là bằng chứng về sự tồn tại của phạm trù dạng.
Thông thường, các ngôn ngữ phân biệt hai dạng của động từ:
– Dạng chủ động của động từ được sử dụng khi chủ ngữ ngữ pháp đồng thời cũng là chủ thể hay tác nhân của hành động, còn bổ ngữ là điểm hướng tới của hành động. Dạng chủ động thường không có dạng thức biểu thị riêng mà thường trùng với dạng thức của thời và ngôi. Ví dụ, trong câu sau của tiếng Anh: “The teacher called Nam” (Thầy giáo đã gọi Nam), thì “the teacher” (thầy giáo) vừa là chủ ngữ ngữ pháp vừa là tác nhân của hành động, nên động từ ‘call’ (gọi) có dạng chủ động (called).
– Dạng bị động của động từ được sử dụng khi chủ ngữ ngữ pháp và chủ thể của hành động không trùng nhau: chủ ngữ ngữ pháp là đối tượng chịu tác động của hành động do một chủ thể khác gây ra. Ví dụ: Trong ví dụ đã dẫn ở trên, nếu ta muốn thể hiện chủ ngữ ngữ pháp (Nam) là đối tượng chịu sự tác động của hành động do chủ thể (teacher) gây ra thì ta có thể biến đổi động từ ‘call’ sang dạng bị động và khi ấy ta có câu sau: “Nam was called by the teacher” (Nam đã được thầy giáo gọi).
Ngoài hai ‘dạng’ trên, người ta còn nói tới dạng phản thân của động từ. Dạng phản thân được sử dụng trong những tình huống, khi chủ thể gây ra hành động đồng thời cũng là chủ thể chịu sự tác động của chính hành động đó. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, các động từ như ‘mưt’xia’ (rửa), ‘otdavat’xia’ (hiến mình), ‘otdaliat’xia’ (rời xa) là dạng phản thân của các động từ ‘mưt’’, ‘otdavat’’, ‘otdaliat’’.
Trong các ngôn ngữ không biến hình, ý nghĩa dạng thường được thể hiện bằng các từ công cụ (thường được gọi là hư từ). Như trong tiếng Việt chẳng hạn, dạng bị động thường được thể hiện bằng hai từ là ‘bị’; và ‘được’, kèm theo sự đánh giá tiêu cực hoặc tích cực đối với sự việc đang được đề cập tới, so sánh:
Cảnh sát bắt nó/Nó bị cảnh sát bắt.
Họ tặng hoa cho cô ấy/Cô ấy được họ tặng hoa.
_________________________________________________