TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Archive for the ‘Ngôn ngữ học tri nhận’ Category

Tặng phẩm của ngôn ngữ: Thói “ăn” nếp “ở” của người Việt qua cách nói

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 30, 2010

Ngô Nguyên Dũng

Không biết có phải do hoàn cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xa xưa, mà người Á đông nói chung, người Việt nói riêng, đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải chỉ để sinh tồn, mà còn để hưởng thụ: Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho sướng miệng cái đã, mấy chuyện khác tính sau.

Ở đâu lúc nào, một mình hay nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi coi có cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay sau gì cũng phải kiếm cái gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya. Vì vậy, trong tiếng Việt có vô số động từ đôi đi chung với “ăn”. Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân tộc khác.

Nhưng “ăn” nhiều khi lại không có nghĩa là “ăn”, mới lạ!

Tụ họp đình đám, lễ lạt giỗ tết, người mình nói “ăn cưới”, “ăn tết”, “ăn giỗ”, “ăn cúng”, “ăn đám ma”, … Từ “ăn” trong những nhóm chữ này rõ ràng là hành động đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được. Giống như “ăn” trong “ăn khín”, “ăn chực”, cũng là “ăn”, nhưng hàm ý không mấy tốt, tới ăn không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại nhiếc móc sau lưng: “Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn khín mà không biết mắc cỡ!” Nhưng “ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực nằm chờ” lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề gì đó. Có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những nơi xa xôi có việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp; ăn để chực chờ tới lượt được vô hầu quan lớn.
Phong cách ăn uống, nói năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục, lễ giáo của người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái (vì thời xưa không được tới trường), được cha mẹ dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở”, coi như những chuẩn mực để xử thế và giao tiếp trong gia đình, họ hàng và ngoài xã hội. Nghĩ rộng, thấy bốn món “công, dung, ngôn, hạnh” được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây, người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và nghĩa bóng của cụm từ “học gói, học mở” trong thành ngữ này. Tự điển Việt ngữ có vài cách giải thích khác nhau, không biết thực hư ra sao?). Vậy, “ăn” khi đi chung với “nói” được hiểu là đối đãi, cư xử. Nhưng khi cặp kè với “nhậu”, tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn toàn khác: “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô đâm ra mất lòng.” Ở đây, không biết vì nỗi niềm trắc trở gì mà “ăn nhậu” cương quyết chia tay, không còn luyến tiếc chút dư vị nào của “ăn uống, nhậu nhẹt” nữa, để cải trang, đổi lớp thành “dính líu, dính dáng”. Lạ, nhưng không lớn!

Chuyện lớn chỉ thực sự xảy ra, khi “ăn”… lỡ chung chạ với “nằm”. Mẹ quát con gái: “Hả, cái gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm, lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!” Nhất định là phải có “ăn” vô đây thì “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và được dùng để ám chỉ những trường hợp chung đụng xác thịt không chính thức. Vợ chồng với nhau, không ai (hoặc không nên) nói “ăn nằm”, mà nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ: “Vợ chồng mình ăn ở với nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ lòng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết ăn nói sao đây với con cái?” Nghe thương xót biết mấy! Và, “ăn nói” trong tình huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây là lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình 1ớn một cách vô cùng khó hiểu.

Chuyển qua “ăn vụng”. Nghĩa đen ý nói “giải quyết cái đói một cách lén lút”: “Nhà tôi có tật ăn vụng ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm nguội.” Chuyện không sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo trẹo cảnh cáo: “Tôi nói cho anh biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi biết được, đừng có trách tôi ác!” Và, tới khi bạn gái trề môi nhún mỏ rỉ tai nhau: “Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép, bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đáng đời!”, thì chuyện đã… mọc trăng sao, đang tối thành sáng trưng; hành động “ăn vụng” trở mặt, chỉ còn độc nhất một nghĩa bóng: “Đã có gia đình, còn đi ngoại tình.”

Trực tiếp hay gián tiếp cùng nghĩa với “ăn”, trong tiếng Việt có “ăn xin”, “ăn mày”: “Xin” người khác để có miếng ăn, để sinh sống (chữ “mày” trong “ăn mày” ngụ ý gì, có dính dáng gì tới “mày ốc”, “mày ghẻ” hay không, người viết không rõ.) Không riêng gì ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, có cả làng sống bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con. “Ăn mày”, vì vậy, nghiễm nhiên trở thành cái nghề. Để rồi, từ “nghề” chuyển ra “nghiệp”, đâu mấy hồi. Sinh ra, vướng nghiệp “ăn mày”, cuộc đời hẳn nhiên rách, rách lắm. Đâu mấy ai nhờ đó mà “ăn nên làm ra”?

Ở Pháp, tin mạng có trang “Ăn mày văn chương”, nghe rất “ấn tượng”. Nhưng cá nhân tôi không thấu đáo hai chữ “ăn mày” ở đây hàm ý gì. Văn chương chữ nghĩa là tặng phẩm của ngôn ngữ dành cho tất cả chúng ta, nào phải sở hữu riêng ai để mình xin xỏ hay đem bố thí cho người khác!

Qua tới các động từ “ăn cắp”, “ăn trộm”, “ăn cướp” thì đột nhiên “ăn” không còn ý nghĩa là hành động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà: lấy của người khác làm của riêng.
Ca dao có câu:

Con ơi học lấy nghề cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

Thì ra, không phải chỉ có nghề “ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ, “thu nhập” ngang ngửa tới ba năm làm. Nghe bắt ham!
Dĩ nhiên, đã là nghề thì phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi mẫn sau khi tốt nghiệp học đường “ăn xin”, và có chiến thuật tiến thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “ăn trộm”. Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được… bảng vàng ghi tên. Tất cả mánh mung được “sư phụ” chỉ giáo cho “đệ tử”, và hẳn là… lén lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. Vì vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa lên tin mạng cho người viết… tiện việc tra cứu.

Trong văn chương, nữ sĩ Trúc Giang tự thú trong hồi ký “Tình yêu nuôi tôi lớn”, đã “ăn cắp thì giờ của con, của chồng để viết truyện, để làm thơ”. Động từ “ăn cắp” được chị biểu tượng hoá, sử dụng ẩn dụ rất khéo, đọc nghe ái ngại, không biết rồi chị có… bị sao không, có bị chồng con thưa ra toà phạt vạ hay tù tội gì không?

Trong khi “ăn cắp” và “ăn trộm” mang nghĩa lén lút, lặng lẽ, lấm lét lấy “cắp” và lấy “trộm” của người khác làm của riêng, thì “ăn cướp” là dùng võ lực lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm, súng đạn để tước đoạt cho bằng được.

Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
.

Khổ cho dân mình quá! Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có “108 anh hùng Lương Sơn Bạc”. Rủi thay, chỉ sướng… ảo, vì các vị anh hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng “vừa bị tuyên án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta làm việc.” Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh, rằng anh mắc phải “hội chứng Robin Hood”. Dù vậy luật sư vẫn không cứu vãn cho anh được trắng án. Ấy, ngoài “hội chứng ăn cắp”, còn có thêm “hội chứng ăn cướp” nữa kia! Biết đâu chừng, dám có cả “hội chứng ăn chực, ăn khín” nữa, mà khoa tâm lý học chưa tìm ra!
Đàn bà, con gái khi không có gì ăn, tối tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên nghiệp: mang danh “gái ăn sương”, không được ai thương hại, mà còn bêu rếu. Thời đại bây giờ, đàn bà, con gái không còn độc quyền hành nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu niên nam nữ cũng nhảy vô cạnh tranh. Còn động từ “ăn đêm”, tôi nghĩ, không hẳn đồng nghĩa với “ăn sương”, mà gần với “ăn khuya” hơn. Ngoài ra, còn được dùng để chỉ “hành động đi kiếm mồi trong đêm tối” của muông thú, như trong bài đồng dao ru con:

Con cò mày đi ăn đêm,
đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…

Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn, người miền Bắc nói “bắt nạt”, người miền Nam dùng động từ “ăn hiếp”, thường nghe trẻ con hài tội lẫn nhau: “Thưa cô, trò A ăn hiếp con, mượn con cục gôm, con đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!”

Khi có kẻ thừa cơ “chôm” của, hoặc đợi anh hùng hảo hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người Việt mình nói “ăn hôi”. “Ăn tàn” trong thành ngữ “theo đóm, ăn tàn” cũng có nghĩa tương tự như vậy: “Cái thằng đó là hạng người ‘theo đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe hèn lắm. Còn “ăn mót” nghe lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng có gì đáng hãnh diện, vậy mà tục ngữ có câu:

Muốn ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót.
Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà bắt cua.

Câu đầu, tôi không biết phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời nên biết chọn ý trung nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng?

Còn “ăn” trong “ăn quịt” nguyên thuỷ hẳn có nguồn gốc “ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền”. Về sau được dùng chung cho mọi trường hợp, khi tiền bạc không được thanh toán sòng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ nhau: “Chị coi chừng cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền rồi ăn quịt.” Nhưng khi “ăn” cặp kè với “vạ”, ngộ nghĩnh thay, “ăn” bay mất nghĩa gốc. “Ăn vạ” là tiểu xảo thường thấy ở tâm lý lì lợm của trẻ con và… cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền: “Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn ra ăn vạ, khóc lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!” Hoặc: “Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay vì được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.” “Ăn” trong trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý “cầu thắng, để đạt được mục đích” chăng?

Tương tự như trong chuyện bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi: “Bữa nay ăn thua sao rồi?” Không chạy đi đâu, “ăn” ở đây đồng nghĩa với “thắng”. Giống như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới lúc thắng thua minh bạch mới thôi”: “Tư Lùn là tay anh chị thuộc hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao ta!” Hoặc trong “ăn gian”: Gian lận để thắng. Nhưng nhiều khi còn được sử dụng thay cho “gian dối”: “Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, cao có 1 thước 55 thôi mà dám nói cao tới 1 thước 72. Thiệt, xạo hết ý!” Chuyện nhỏ. Còn có người “ăn gian” trí thức nữa kia! Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau: “Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là tiến sĩ, nghe có tức không?”

Có ai muốn dằn mặt, cảnh cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho “ăn” là đủ: “Nói cho mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức thì!” Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như “tát”, “đấm”, “đá”, v.v… thì “ăn” có nghĩa “nhận lãnh, lãnh lấy hậu quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông một cái nhẹ hều, đã bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn gì cũng thích, chỉ không hảo mấy món “ăn đòn”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”, v.v… mà thôi.

Gặp trường hợp bà mai đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ coi mặt, thòng theo câu nói: “Tại con nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, chú à!”; hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà phấn son lên sân khấu, ăn đèn dễ sợ!”; từ “ăn” mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp” với kỹ thuật chụp ảnh, trong “ăn ảnh”, cũng như với ánh đèn sân khấu, trong “ăn đèn”.

Nghĩa cũng gần như vậy, người Việt nói “ăn nhịp”, thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lý, không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà, dặn dò thằng em: “Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật cho ăn khớp, không thôi bả đánh cho nát đít!”… Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi đôi với tiếng… nước ngoài, Việt ngữ có động từ “ăn rơ”, với “rơ” được phiên âm từ jeu (trò chơi, cuộc chơi) của tiếng Pháp mà ra. “Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ với nhau hết sức.” Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học.

Phần trên có nhắc tới động từ kép “ăn ở”, ngoài ý nghĩa “đời sống vợ chồng” còn hàm ý chỉ “cách xử thế, đối đãi” với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột than thở cùng chồng: “Lúc nào vợ chồng mình cũng ăn ở hiền lành, phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”, nhưng khi người mẹ xẳng giọng với anh con trai đã ngoài năm mươi mà vẫn còn độc thân: “Mầy cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó nó lấy mầy làm chồng.” Hoặc khi cô con gái lắc đầu nguây nguẩy: “Con không ưng anh ấy đâu, người gì mà ăn ở dơ dáy như heo!”, nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành “thói ăn nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì tới người khác.

Thành ngữ Việt nam có vô số câu liên quan tới “ăn”. “Ăn không”, tiếng miền Nam, cùng nghĩa với “ăn vã”, tiếng miền Bắc, ý nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo cơm, cháo, v.v… Khi đi chung với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi rồi”, có nghĩa “rỗi việc”, nhưng không mấy tốt, gần như “vô tích sự”: “Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!”

“Ăn xổi”, với trạng từ “xổi” (“qua loa, tàm tạm”, thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng Bắc, đi chung với “ở thì” (“ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn”), thành “ăn xổi ở thì”: nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi dụng, bạc tình bạc nghĩa. Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả buông lời ong bướm (ngôn ngữ hiện đại nói là “thả dê”) đòi… ăn nằm, nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác:

Phải điều ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!

Rõ là nàng Kiều được Vương ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo thì thôi!
Khi đứng trơ trọi một mình, “ở” có nhiều nghĩa, và không phải chỉ giữ vai trò động từ: “Anh ở lại đây với em tối nay nghe! Ở một mình, em sợ ma quá hà!”, mà cũng có thể là giới từ chỉ định xuất xứ, vị trí: “Cô ấy ở quê mới lên, nên ưa đi chân không ở trong nhà.”

Khi “ở” kết bạn với “đậu”, có nghĩa “sống nhờ, sống cậy” vào người khác. Với “đợ”, hoặc với “người” thành “người ở”: “tới sống chung để giúp việc nhà có lãnh lương”. “Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con, chờ kiếm ra chỗ ở đợ.” Với “vậy”, theo tôi, có hai nghĩa: “ở vá”: độc thân, không lập gia đình” (có tự điển ghi thêm, “vá” cũng còn có nghĩa như “goá”). Hoặc, “ở goá: sau khi vợ hoặc chồng chết, không lấy người nào khác.” V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những trường hợp nêu trên, “ở” có nghĩa “hoàn cảnh gia đình”.

Ở trên có nhắc tới “ăn không”, với “ở” ta có “ở không”: rảnh rỗi, không làm gì cả. “Nhân lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy giấy viết tí toáy làm thơ tình gởi đăng nhật trình.” Tới đây, ta có thêm “ở cữ”: hoàn cảnh, thời gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ.

Thời trước, thi sĩ trào phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: “Sư cô ở cữ”.

… Nhưng rồi một sáng mùa thu,
Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa …

“Ăn” với “ở”, tóm lại, thường đi đôi với nhau như hình với bóng, như đũa có đôi, như môi răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người viết xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao “hậu hiện đại” tự biên tự chế:

Ăn có đũa, ở có đôi.
Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.

______________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ và văn hóa, Ngữ nghĩa từ vựng học | Thẻ: , , , , | 2 Comments »

Bàn thêm về cuốn sách 1.575 thành ngữ – tục ngữ

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Hai 27, 2010

Tường Vy

Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt là một đề tài được nhắc đến rất nhiều trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập của đất nước hiện nay. Chứng minh cho sự giữ gìn tiếng Việt là các câu thành ngữ, tục ngữ vốn được sáng tạo và lưu truyền trong dân gian qua nhiều thế hệ người Việt.

Từ hiểu sai, dùng sai

Cuốn theo những biến đổi mạnh mẽ của xã hội, các câu thành ngữ, tục ngữ cũng dần bị biến đổi theo cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, trong quá trình biến đổi đó, nhiều trường hợp các câu thành ngữ, tục ngữ đã sai lệch so với nguyên gốc, từ đó dẫn đến việc áp dụng sai vào trong văn bản. Việc viết sai, hiểu sai, dùng sai các thành ngữ, tục ngữ vô tình đã làm mất đi tính trong sáng của tiếng Việt.

Trong tình hình đó, cuốn sách 1575 Thành ngữ-Tục ngữ cần bàn thêm (NXB Văn nghệ) của học giả Lê Gia, tác giả của nhiều bộ sách nghiên cứu về ngôn ngữ dân gian Việt Nam, vừa được xuất bản đã giúp bạn đọc hiện nay hiểu rõ hơn về ý nghĩa thật sự của những thành ngữ, tục ngữ thường được sử dụng.

Trong lời mở đầu, tác giả đã nhấn mạnh cuốn sách không phải là một cuốn từ điển về thành ngữ, tục ngữ mà là một tác phẩm nhằm bổ sung thêm, giải thích lại ý nghĩa của 1.575 thành ngữ, tục ngữ mà vì nhiều lý do cả chủ quan lẫn khách quan đã bị diễn giải, sử dụng sai trong các văn bản kể cả trong nhiều cuốn từ điển tiếng Việt, từ điển thành ngữ, tục ngữ.

Có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ vốn dĩ tưởng chừng rất quen thuộc, thường xuyên được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, nhưng bản thân người sử dụng cũng như một số sách từ điển hoặc không hiểu rõ hoặc giảng sai. Ví dụ điển hình như câu thành ngữ “Há miệng mắc quai”, nhiều sách từ điển cho rằng, hàm ý rằng đã trót ăn của ai rồi thì không thể mở miệng phê phán, tố cáo họ được. Theo học giả Lê Gia thì giải thích cách đó mang ý nghĩa đạo đức, đi vào ứng dụng cụ thể của câu hơn là ý nghĩa thật sự ban đầu. Theo ông, “quai” đây là quai nón. Khi đội cái nón lá thì ta phải kéo quai nón xuống mà vít cứng dưới cằm để nón khỏi bay. Và như vậy khi muốn há miệng ra cũng rất khó vì mắc cái quai nón ghì cứng cằm mình. Từ hình ảnh đó, thành ngữ hàm ý muốn nói: “Mình đã nhờ vả họ, suy tôn họ, đề cao họ, phục tùng họ, đội họ lên đầu (đội nón) rồi thì nay có muốn nói gì khác về họ cũng rất khó mở miệng ra mà nói vì tay chân họ, ảnh hưởng của họ (quai nón) sẽ giữ cứng miệng mình lại. Đó là tự mình khóa miệng mình”.

Cũng tương đồng như thế, ở câu tục ngữ “Một tiền gà, ba tiền thóc”, nhiều trường hợp được sử dụng, lý giải như là việc tham một món lợi nhỏ sẽ dẫn đến tổn thất, thiệt thòi lớn gấp nhiều lần sau này. Học giả Lê Gia cho rằng trên thực tế, câu nói này hàm ý: “Tiền vốn bỏ ra lúc ban đầu để mua cho có thì ít hơn nhiều so với tiền bỏ ra tiếp theo để nuôi dưỡng nếu mình muốn sử dụng, hưởng lợi”. Do đó, câu tục ngữ này ý khuyên nên tính toán đến khả năng lo toan sau này khi làm việc gì đó chứ hoàn toàn không phải mang nghĩa tiêu cực, phê phán…

Đến hiểu nhầm, dùng nhầm

Thậm chí, có khi thành ngữ, tục ngữ còn bị hiểu sai lệch hoàn toàn so với ý nghĩa ban đầu dẫn đến dùng nhầm. Điển hình nhất như câu thành ngữ “Xướng ca vô loài” vốn hay bị xem là một câu chửi mắng, dè bỉu những người làm nghề ca hát, biểu diễn sân khấu. Theo học giả Lê Gia thì thời xưa người ta chia xã hội ra làm bốn thành phần chính là “sĩ, nông, công, thương” (người có học, người làm ruộng, người làm công nghệ và người buôn bán) là những thành phần có đông người, được gọi là “Tứ dân”. Còn các thành phần ít người và bán chuyên nghiệp như lên rừng tìm kiếm lâm sản, làm dịch vụ như chèo đò, làm thuê… trong đó có giới “xướng ca” thì không được xếp vô loại nào cả (vô loài) tức là không thuộc hạng “Tứ dân”, chứ không có ý khinh khi gì cả. Việc ngại gả con cái, không thích cho con cái theo con đường này không phải vì “vô loài” mà do lúc đó tiền nhân không coi đây là nghề chính thức, mang tính nghiệp dư và chỉ có thể hành nghề khoảng chục năm, sau đó cùn nghề, thành thất nghiệp.

Là một học giả có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, thế nhưng tác giả Lê Gia cũng khá cẩn thận khi dùng từ “cần bàn thêm” cho tác phẩm của mình. Ý kiến của học giả Lê Gia chỉ nhằm “bàn thêm”, góp thêm một cách hiểu được cho là tương đối đúng nhất về những câu thành ngữ, tục ngữ quen thuộc. Từ cách hiểu đúng sẽ dẫn đến dùng đúng thành ngữ, tục ngữ cho từng hoàn cảnh, ngữ cảnh khác nhau. Sự trong sáng của tiếng Việt vì thế sẽ được bảo vệ một cách hiệu quả hơn.

____________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học tri nhận, Ngữ cú học | Thẻ: | Leave a Comment »

Thành ngữ: Con cà con kê

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Hai 20, 2010

Thành ngữ Con cà con kê được dùng trong bài Kinh nghĩa Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng.

(…) Kính lấy đấy ! Răn lấy đấy ! Liệu học ăn học nói, học gói học mở; khi anh nó hoặc ra xô xát chi lời, cũng tươi, cũng đẹp, cũng vui cười, chớ như ai học thói nhà ma, mà hoặc con cà con kê chi kể lể (…).

Tác giả bài Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng và bài Lấy chồng cho đáng tấm chồng được Trần Trung Viên (Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm, 1968), Nghiêm Toản (Việt Nam văn học sử trích yếu, Khai Trí, 1968) và Tạ Quang Phát (Vân đài loại ngữ, Văn Hoá Thông Tin, 1995) gán cho Lê Quý Đôn (1726-1784). Dương Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1960) thì cho rằng giả thuyết này “không được chắc lắm”, nhưng ông không đưa ra bằng chứng gì để bác bỏ nó.

Kể lể con cà con kê có nghĩa là :
– Kể chuyện tấm mẳn (nói những điều nhỏ mọn, không đáng nói). Kể lể nhiều chuyện (Huỳnh Tịnh Của, 1895).
– Lan man, dông dài, lôi thôi trong khi nói chuyện (Từ điển tiếng Việt, nhóm Văn Tân, 1977).
– Dài dòng hết chuyện này sang chuyện khác (Từ điển tiếng Việt, nhóm Hoàng Phê, 1988).
– Nói, kể dài dòng, lan man ít giá trị (Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Thành ngữ tiếng Việt, Khoa Học Xã Hội, 1978).

– (Cà là do từ cổ Ca nghĩa là gà). Chê người nói dài dòng, hết chuyện này sang chuyện khác (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Văn Hoá, 1989).

Kể lể con cà con kê, nói gọn lại là Cà kê, hoặc kéo dài ra là Cà kê dê ngỗng, đều có nghĩa là nói dông dài, nói những chuyện lôi thôi, vụn vặt.

Tất cả các từ điển của ta đều thống nhất như vậy.
Ngữ nghĩa của Con cà con kê không còn gì để bàn.
Nhưng tại sao Con cà con kê lại có nghĩa như vậy ? Câu hỏi chính xác hơn là Con cà con kê là con gì ? Là đặc sản Việt Nam hay là hàng ngoại được nhập cảng?
Cà kê, là chữ Hán hay Việt, hay không phải Việt cũng chẳng phải Hán?
Trước hết, Con là một từ thuần Việt dùng để chỉ con bò, con người, con thuyền, con Tạo…
Kê là chữ Hán, nghĩa là con gà.
Con kê là con gà… nửa Việt nửa Hán ! Còn Con cà? Chữ Hán không có con cà.
Thành ngữ Con cà con kê dứt khoát không phải là chữ Hán.
Tiếng Việt không có con kê, không có con cà. Chỉ có vài con có tên kép như cà đúi, cà tong, cà cuống, cà kếu, cà niễng…

Thành ngữ nói trống không con cà thì khó mà đoán biết là con gì.
Nguyễn Lân cho biết Cà là do từ cổ Ca nghĩa là gà. Chữ Nôm Gà được viết bằng chữ Ca (người anh) và bộ Điểu. Từ cổ Ca (nghĩa là gà) của Nguyễn Lân có liên hệ gì với từ Ca của chữ Hán không ?

Theo Nguyễn Lân thì về mặt ngữ nghĩa, thành ngữ Con cà con kê tương đương với Con gà con kê. Nôm na là… Con gà con gà. Một thành ngữ chỉ có bốn chữ mà bị khập khiễng tới hai lần (vừa pha trộn Việt Hán, vừa lặp lại cùng một ý) thì khó đứng vững và tồn tại được.

Rốt cuộc, thành ngữ Con cà con kê cũng chẳng phải là tiếng Việt. Không phải Hán, không phải Việt. Hay là do đọc trại, nói trại mà ra ?

Trong số những từ có âm gần giống Cà kê thì chữ Hán có từ Ca kệ nghĩa là nhà sư tụng bài kệ. Người xưa kính trọng nhà sư. Bài kinh, bài kệ cho dù có dài thì cũng không đến nỗi bị coi là dông dài, tầm phào, làm phiền người nghe như kể lể Cà kê . Không ai nỡ nặng lời trách móc nhà sư tụng bài kệ như vậy. Cà kê của dân gian khó có thể là biến âm của Ca kệ.

Tiếng Việt có từ Con cả (con trưởng) và Con kế (con thứ). Hay là Con cà con kê đến từ Con cả con kế ?
Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng, nghĩa là cô gái…chưa có thai (kết luận hơi táo bạo nhưng cứ tạm cho là ngày xưa là như vậy!). Bà mẹ không thể khuyên con gái đừng dông dài kể chuyện con cái từ lúc chưa về nhà chồng được. Vả lại người xưa quan niệm rằng đông con là có phúc. Kể chuyện con cái là thói quen của số đông các bà mẹ, trong đó có cả bà mẹ đang dông dài khuyên con gái mình.

Giả thuyết Con cà con kê là do đọc trại từ Con cả con kế cũng không chấp nhận được. Nói tóm lại, Con cà con kê không phải Tàu, không phải ta, không phải đọc trại âm. Con cà con kê có vẻ… không phải là hai con vật. Thế thì Cà kê là cái gì? Là Phú Lang Sa chăng?

Kể lể con cà con kê được từ điển của soạn giả người Pháp định nghĩa là:
– Raconter des histoires de taupes, histoires interminables (kể chuyện con cà đúi, chuyện dông dài) (Gustave Hue, 1936). Con cà là con cà đúi (chứ không phải cà cuống hay cà tong), còn con kê không biết là con gì nên bị bỏ quên.
– Faire des jérémiades ( than vãn dai dẳng) (Génibrel, 1898).

Kể lể con gà kế: Rappeler un à un des services rendus (kể lể, nhắc lại từng việc đã làm) (Génibrel). Chữ kế ở đây nghĩa là continuer, perpétuer, joindre, immédiat (tiếp tục, kế tiếp). Kế liếu, kế kèo : toujours, sans cesse (dai dẳng, không dứt). Génibrel còn cho biết thêm mấy từ :
Cà kê cơ cầu : chercher chicane (kiếm chuyện, gây sự). Gustave Hue cũng định nghĩa Cà kê, cà khịa là chicaner ( kiếm chuyện).

Nói ca kì : parler longtemps, sans fin ; ne pas déparler (nói dai, nói không ngừng).
Làm ca kì : trainer en longueur (làm…câu giờ).
Ca kì cũng có nghĩa là dông dài, tương đương với Cà kê. Dường như hai từ này chỉ là một, được phát âm bằng hai cách khác nhau.

Kể gà, kể dê, ngỗng : Énumérer poules, chèvres, oies. Énumérer fastidieusement (kể lể nhạt nhẽo, vô duyên). Ngày nay ta thường nói Kể lể Cà kê dê ngỗng. Mấy thành ngữ Kể gà, kể dê, ngỗng,Kể lể con gà kế, Kể lể con cà con kê đều có hình bóng con gà. Ban đầu là Cà kê ngắn gọn, về sau người ta đưa thêm dê ngỗng vào chơi cho đông vui.

Từ điển Robert và Larousse của Pháp cho biết:
Caquet (đọc là ca kê, từ tượng thanh, có từ thế kỉ 15): Gloussement de la poule au moment où elle pond (tiếng gà mái kêu lúc đẻ trứng). Nghĩa bóng của Caquet là bavardage indiscret, intempestif (Ba hoa không đúng lúc).
Caqueter (động từ): Parler sans arrêt et de choses futiles, souvent de façon importune, gênante (nói không ngừng, nói dông dài, nói chuyện tầm phơ khiến người nghe phải khó chịu).

Thật bất ngờ! Cà kê của tiếng Việt và Caquet của tiếng Pháp có nghĩa giống nhau là nói dông dài. Phát âm cũng giống nhau theo quy luật âm “ca” của tiếng Pháp chuyển sang tiếng Việt thành “cà” (cà rốt, cà nông, cà phê…). Cà kê giống Caquet từ âm đến nghĩa. Caquet xuất phát từ tiếng gà cục tác. Cà kê cũng thấp thoáng bóng dáng con gà. Cà là gà (?), kê là gà, cà kê có họ với con gà kế v.v.

Ngẫu nhiên Cà kê của ta giống Caquet của Pháp chăng?
Xét về mặt ngôn ngữ thì Cà kê không phải là từ thuần Việt, cũng không phải là thuần Hán cho nên không thể có sự ngẫu nhiên giống nhau được. Chỉ còn một giải thích thoả đáng là ta đã nhập cảng Caquet của Pháp và Việt hoá thành Cà kê.

Kết quả của cuộc giao lưu văn hoá là Cà kê được ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 19.
Như vậy thì… tác giả bài Kinh nghĩa Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng không thể là Lê Quý Đôn (1726-1784) được.
Dương Quảng Hàm có lí. Con cà con kê là một bằng chứng.

Lại thêm một vấn đề văn học! Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa! Nuôi được Con cà con kê, người xưa không ngần ngại mời thêm hàng xóm của gà vào chơi cho đông vui. Các bà, các ông từ nay có thể Kể lể cà kê dê ngỗng, hay Kể gà, kể dê, ngỗng . Dê thuộc tam sinh (ba con vật được dùng để tế lễ là trâu, dê, lợn), bị tụt xuống ngang hàng với gà vịt.

Thật ra thì dê được mời vào chơi chỉ vì dê…đúng vần mà thôi. Nếu không phải là dê thì là Kể lể cà kê bê ngỗng, cà kê tê ngỗng, hay cà kê trê ngỗng cũng được. Miễn là hai “con” đầu đàn phải là Cà kê.

Họ hàng của Cà kê lập nghiệp tại Việt Nam khá đông:
Cà riềng cà tỏi (nói đi nói lại có một chuyện). Cà rịch cà tang (làm việc chậm chạp). Cà kê bị rút ngắn, chỉ giữ lại từ Cà thôi.

Ca kì (longtemps, sans fin : dông dài), Cà khịa (gây sự, kiếm chuyện), Kề cà (để mất nhiều thì giờ vì những việc không quan trọng, không cần thiết) v.v… Phân tích lối nói Cà kê đúng là…dông dài, tầm phào mất thì giờ. Hi vọng rằng không đến nỗi…làm người nghe phải khó chịu! Cà kê là một kiểu nói của Pháp được Việt hoá.
…”
(Trích Con Cà Con Kê của Nguyễn Dư)

__________________________________________________________

Posted in Ngữ cú học | Thẻ: | 1 Comment »

Chúng ta làm gì khi tức giận?

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Hai 20, 2010

Lê Đình Tư
(Bài đã đăng trên Tạp chí Tri thức trẻ)

Các tình trạng cảm xúc của chúng ta vốn được coi là vô hình, nghĩa là chúng ta không có cách nào để mô tả hay bày tỏ cho đúng các tình trạng đó theo cách riêng của chúng ta. Thường thì chúng ta phải mượn lời của người khác, tức là mượn những từ ngữ đã có sẵn trong tiếng nói chung của cộng đồng, hoăc những từ ngữ mà ai đó đã sử dụng nhưng được mọi người biết đến và sử dụng như là một cách diễn đạt rất phù hợp với tình trạng cảm xúc của mình, ví dụ như những từ ngữ hay cách diễn đạt của các nhà văn, nhà thơ chẳng hạn. Điều đó cũng có nghĩa rằng chúng ta không có tiếng nói riêng để mô tả về những tình trạng cảm xúc vốn rất riêng của chúng ta. Bởi vậy, các tình trạng cảm xúc của chúng ta đều mang tính cộng đồng hay dân tộc. Chính điều này làm cho các tình trạng cảm xúc của chúng ta có thể được mô hình hóa: cảm xúc của chúng ta biểu hiện ra dưới dạng những mô hình.chung cho toàn thể cộng đồng hay toàn thể dân tộc. Cho nên, chúng ta, nếu thuộc về một cộng đồng dân tộc nào đó, không có cách nào thoát ra khỏi cái mô hình chung đó. Nói cách khác, về mặt biểu hiện cảm xúc qua ngôn ngữ, chúng ta sẽ không thể bị trộn lẫn với người các dân tộc khác. Nếu có ai đó trong chúng ta muốn chạy trốn hoặc phủ nhận cái mô hình ấy thì đó chẳng qua chỉ là „lấy ước mơ làm sự thật”. Người ta gọi đó là mô hình văn hóa-ngôn ngữ của cảm xúc. Nhờ mô hình này mà các tình trạng cảm xúc của chúng ta hiện ra dưới dạng cụ thể, hay nói cách khác, cảm xúc của chúng ta trở nên có hình dáng rõ rệt.

Quả đúng như vậy. Các nhà khoa hoc đã chỉ ra rằng, các tình trạng cảm xúc của chúng ta không phải hoàn toàn là vô hình như chúng ta vẫn tưởng. Chúng ta có thể tìm hiểu nội dung cụ thể (hay còn goi là nội dung khái niệm) của các tình trạng cảm xúc thông qua mô hình văn hóa chung được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khi nói về một tình trạng cảm xúc nào đó, chúng ta có thể liên hệ với mô hình văn hóa-ngôn ngữ này và dựa vào nó để hiểu cụ thể tình trạng cảm xúc ấy. Như vậy, một tình trạng cảm xúc của chúng ta trở nên có hình thái rõ rệt nhờ vào những từ ngữ chúng ta sử dụng. Để thấy được điều đó, ta hãy xét một trong những tình trạng cảm xúc đó: tình trạng tức giận.

Tức giận là gì? Thật khó mà có được một cách giải thích cặn kẽ, một cách giải thích khiến cho mọi người đều có thể hình dung được một cách chắc chắn và giống nhau về ý nghĩa của từ „tức giận” hay tình trạng cảm xúc mà từ này có nhiệm vụ thể hiện. Chẳng hạn, trong các từ điển, mà thực ra là theo các nhà tâm lí học, „tức giận” thường được giải thích là „Sự phản ứng mạnh mẽ trước một kích thích từ bên ngoài và được biểu hiện bằng sự nóng nảy, không hài lòng, giận dữ.” hoặc „ Tình trạng cảm xúc khi cơ thể rơi vào trạng thái ức chế cao độ bởi một lí do nào đó khiến nó phải đáp lại bằng một phản ứng mạnh mẽ.” Quả thật, khó có thể tưởng tượng được hình thù của tình trạng cảm xúc này, bởi vì còn cần phải giải thích „nóng nảy” nghĩa là gì? hay „không hài lòng” là gì? hoặc „trạng thái ức chế cao độ” nghĩa là gì?, v.v. Và cứ như vậy thì không bao giờ chúng ta có thể giải thích được tình trạng cảm xúc này một cách rõ ràng, vì thực ra đó chỉ là cách giải thích theo kiểu „đèn cù” hay „con kiến leo cành đa” mà thôi.

Song, nếu xét về mặt ngôn ngữ thì tình trạng „tức giận” của chúng ta hiện ra rất cụ thể. Nói về sự tức giận, chúng ta có sẵn những từ ngữ đã được cộng đồng chấp nhận rộng rãi và dựa vào đó chúng ta có thể biết được nội dung cụ thể của khái niệm „tức giận”. Cái cách chúng ta dùng từ ngữ để nói về sự tức giận dựa trên một mô hình nhận thức (tưởng tượng) chung về bản chất của sự tức giận. Do đó, qua sự phân tích, mổ xẻ ngôn ngữ, chúng ta có thể làm rõ cái cách chúng ta hiểu khái niệm „tức giận”. Và điều còn quan trọng hơn, thông qua cách nói năng về sự tức giận đó, chúng ta hiểu thêm về đặc điểm trong cách nhìn của mỗi dân tộc về sự tức giận, hoặc thậm chí đặc điểm của bản thân cái cách tức giận của mỗi dân tộc.

Vậy, người Việt chúng ta tức giận như thế nào?

Các nhà khoa học đã đưa ra một mô hình chung cho sự tức giận. Hình ảnh cụ thể của sự tức giận là một cái nồi đậy kín và thứ chất lỏng chứa trong nồi. Cơ thể chúng ta được ví như cái nồi đậy kín đó và tình trạng cảm xúc của chúng ta (ở đây là sự tức giận) chính là thứ chất lỏng được đun trong cái nồi đó.

Quá trình diễn ra khi chúng ta đun sôi chất lỏng trong nồi thường diễn ra theo một số giai đoạn mà chúng ta có thể tóm tắt như sau:
1/ Bắt đầu đun: nhiệt độ trong nồi tăng lên từ từ, nước nóng dần lên;
2/ Áp suất trong nồi tăng lên vượt quá mức bình thường và nhiệt độ cũng tăng lên đến gần điểm sôi, tức là nước reo và hơi nước bắt đầu xuất hiện;
3/ Áp suất và nhiệt độ tăng lên đến điểm sôi – nước sôi;
4/ Áp suất tăng quá mức chịu đựng của nắp nồi và nước trong nồi trào ra, thậm chí nếu nồi đậy quá kín, quá chặt thì nắp nồi bị bật tung và có thể gây ra tiếng nổ;
5/ Khi nồi bị bật tung nắp hay nổ thì các thứ trong nồi bị trào ra ngoài, thậm chí bắn tung tóe vào không khí.
6/ Lửa được khống chế hoặc giập tắt, nước trong nồi trở về trạng thái vừa sức chịu đựng của nắp nồi hoặc trở về nhiệt độ bình thường.

Quá trình tức giận của chúng ta cũng tuân theo các giai đoạn giống hệt như vậy. Đầu tiên, có ai đó hay cái gì đó làm cho chúng ta rơi vào tình trạng mất bình tĩnh, ví dụ: Hàng xóm vứt một bọc chất thải sang sân nhà mình chẳng hạn. Khi mới nhìn thấy, chúng ta mới chỉ „sững người lại” và bắt đầu cảm thấy „nóng mắt” Đó chính là lúc tình trạng tức giận của chúng ta ứng với giai đoạn 1 nêu trên: „Lửa trong người bốc lên” (nước trong nồi bắt đầu được đun nóng), „mặt nóng bừng” (nhiệt độ tăng lên) và „hai bên thái dương máu chạy rần rật” (nước trong nồi bắt đầu di chuyển). Nếu sự lên tiếng của chúng ta có hiệu lực, nghĩa là khi chúng ta lên tiếng mà hàng xóm đến xin lỗi vì thằng con nhỡ tay chót đánh rơi bọc rác đó xuống sân (hành động rút bớt lửa) thì cơn tức giận có thể được kiềm chế và cơ thể chúng ta trở về trạng thái bình thường. Song, nếu hàng xóm lại „chọc tức” bằng những câu nói „mát mẻ” kiểu „Mới sáng ra mà đã ầm ĩ cả xóm” hay „Cho đáng đời quân ăn ở thất đức” thì đó sẽ là hành động „đổ thêm dầu vào lửa”. Đương nhiên, khi ấy, „lửa giận bốc lên đầu ngùn ngụt” làm „tóc tai dựng ngược” (áp suất và nhiệt độ tăng lên nhanh chóng) – chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ hai – nước trong nồi bắt đầu reo. Áp suất bắt đầu tích tụ quá mức khiến chúng ta „giận no càng hông” và „mũi phình lên, nó chứa đầy khí giận”. Lửa giận càng bốc cao khi chúng ta phát hiện ra rằng bọc chất thải kia chứa đầy những thứ dơ dáy nhất: ngoài cơm thiu, cà thối lại còn có cả những chất thải kinh khủng như đồ thải của phụ nữ hay trẻ con chẳng hạn. Và thế là chúng ta chuyển sang giai đoạn 3: „Máu trong người sôi lên”. Khi sôi, các thứ trong nồi bị đảo lộn nên mắt chúng ta „long lên sòng sọc”, chúng ta tức „lộn ruột, lộn gan”, „lộn máu” và „lộn mề gà”. Khi cơn tức giận vẫn tiếp tục „dâng trào” (áp suất vẫn không ngừng tăng lên) thì chúng ta chuyển sang giai đoạn 4: Nước trong nồi bị trào ra ngoài qua các kẽ hở. Đó chính là lúc chúng ta „tức sùi bọt mép” „mồm miệng thở phì phì”. Nếu nồi bị đậy kín và chặt quá thì nó có nguy cơ bị nổ tung hoặc vung nồi bị hất tung ra. Đó là lúc „hai con ngươi toan nhảy vọt ra ngoài”. Đứng trước một tình trạng như vậy, nếu không có những hành động „hạ nhiệt”, tức là „làm hả giận” „làm nguôi cơn giận” thì chúng ta sẽ bị nổ, nghĩa là cơ thể chuyển sang giai đoạn thứ 5.
Tiếng nổ của cơn tức giận của người Việt chúng ta rất có ấn tượng thính giác: Chúng ta „nổi giận đùng đùng” „nổi cơn lôi đình” „nổi sấm, nổi sét”.
Nhưng không chỉ có thế. Nếu một phụ nữ Việt Nam „nổi cơn tam bành” thì khi ấy ta không chỉ nghe thấy tiếng nổ của nồi mà còn nghe thấy cả tiếng loảng xoảng của những thứ trong nồi bị hất văng ra đập vào những vật xung quanh, ví dụ như màng nhĩ của chúng ta chẳng hạn. Những gì chất chứa bên trong được dịp tuôn ra hết và màng nhĩ chúng ta (những người xung quanh) phải hứng chịu hàng trăm thứ „đồ” từ cái miệng của người phụ nữ ấy. Tất nhiên còn có cả những sự đổ vỡ đích thực của các vật dụng xung quanh, như bát đĩa, cốc chén, xô chậu…
Khi các thứ trong nồi văng ra, ta mới biết rằng cái thứ chất lỏng trong cái nồi tâm lí của người Việt chúng ta rất có màu sắc: Chúng ta „đỏ mặt, tía tai” hoặc „mặt tái đi”, „mắt trợn ngược trắng dã”, hoặc „mắt đỏ ngầu” hay „mắt đục ngầu”. Đó tuyệt nhiên không phải là một thứ nước trắng vô hồn. Đó là một thứ „nước dùng” hẳn hoi, vì chúng ta „bầm gan, tím ruột” lại.
Con người tức giận rõ ràng là trở nên rất nguy hiểm. Vậy nên, cần phải chuyển sang giai đoạn 6, là giai đoạn làm cho cơ thể trở lại trạng thái cân bằng, nghĩa là phải „trút giận lên đầu” kẻ thù hay „trút lửa xuống đầu” kẻ thù. Nhưng đấy là cách hạ nhiệt của kẻ mạnh. Một kẻ mạnh, khi tức giận có thể trở thành con ác thú „hai chân nhảy chồm chồm” hoặc „nhảy bổ” vào kẻ thù mà „cào xé” như muốn „ăn tươi nuốt sống” kẻ thù. Khi tức giận, chúng ta có thể trở thành những con ma cà rồng đi „đào mả ba đời chín họ” người ta lên và sẵn sàng „ăn máu”, „uống máu”, „trả nợ máu” hoặc mạnh hơn nữa là „phanh thây uống máu” kẻ thù. Đối với kẻ yếu, nơi trút hận có thể không phải là kẻ thù mà là những người xung quanh (các thứ trong nồi văng ra xung quanh): Vì không làm gì được kẻ thù nên chúng ta „cả giận mất khôn” mà đâm ra „giận cá chém thớt”, đáng ra phải „sống mái” với kẻ thù thì lại „trút giận lên đầu con” hay „trút giận lên đầu chồng/vợ” hoặc vào các vật xung quanh. Cho nên, gặp người đang tức giận, chúng ta thường tìm cách tránh xa, để khỏi „trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết” hoặc chí ít thì cũng „chẳng phải đầu cũng phải tai”. Kẻ yếu hơn nữa thì chỉ còn biết làm hại bản thân, nhẹ thì „đấm vào ngực thùm thụp” hay „Bứt đầu, bứt tóc” mình, nặng thì có thể „điên lên” hoặc „nằm lăn ra đất giẫy đành đạch” hoặc hơn nữa là „mắt mũi trợn ngược, „miệng ú ớ„ đến nỗi „tức vỡ mật”. Như vậy, người tức giận không chỉ nguy hiểm cho người xung quanh mà còn nguy hiểm cho chính mình.

Tuy nhiên, trong chúng ta vẫn có những bậc chí nhân quân tử biết „nén giận”, „nuốt giận”, không cho các giai đoạn 3, 4 và 5 xảy ra. Ấy là những người biết theo cái đạo lí của người Việt Nam ta: „Một điều nhịn, chín điều lành” để „chín bỏ làm mười”, „bớt giận làm lành”. Làm được như vậy là không cho cơn tức giận của chúng ta đạt đến điểm sôi mà trở lại trạng thái „dĩ hòa vi quý”. Đó, thiết nghĩ, chính là điều mà dân gian đã gửi gắm vào trong cái mô hình văn hóa-ngôn ngữ của người Việt chúng ta vậy.

_______________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học tri nhận | Thẻ: | Leave a Comment »

BỨC TRANH NGÔN NGỮ VỀ THẾ GIỚI QUA QUAN HỆ LIÊN NGÔN NGỮ

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Một 31, 2010

Lê Đình Tư
(Bài đã đăng trên Tạp chí Ngoại ngữ)

1. Quan hệ liên ngôn ngữ – Từ ngữ âm đến ngữ nghĩa

Sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ thường để lại những dấu ấn mà biểu hiện rõ nhất là sự hiện diện của những vùng từ vựng ngoại lai. Xưa nay, người ta thường dùng khái niệm lớp từ vựng ngoại lai để chỉ chung tất cả những từ ngữ vay mượn từ các thứ tiếng nước ngoài trong một ngôn ngữ. Khái niệm lớp từ không những không thể hiện được sự phân hóa phức tạp bên trong của tiểu hệ thống từ vựng này mà còn tạo ra một cảm giác chung về sự thống nhất tương đối của nó, vốn được coi là cơ sở để đối lập nó với lớp từ vựng bản ngữ. Trong thực tế, các yếu tố ngoại lai đi vào một ngôn ngữ theo những con đường và cách thức khác nhau, và được duy trì trong ngôn ngữ theo những quy tắc khác nhau, tùy thuộc vào loại hình ngôn ngữ, vào những quan niệm khác nhau trong cách bảo vệ tính trong sáng của người bản ngữ, đôi khi có cả những lí do chính trị. Tính ngoại lai của các yếu tố vay mượn thường biểu hiện ở sự vi phạm các quy tắc chung của bản ngữ, ví dụ như quy tắc phát âm hay quy tắc biến đổi hình thái. Trong lĩnh vực thuật ngữ khoa học, do có sự tuân thủ nguyên tắc về tính chính xác của ngôn ngữ khoa học, các từ ngữ vay mượn thường được bảo tồn về các giá trị ngữ âm, ngữ nghĩa, và có khi cả về các đặc trưng ngữ pháp, nên tính dị biệt của các yếu tố ngoại lai trong một ngôn ngữ được biểu hiện rất rõ ràng. Các thuật ngữ khoa học-kĩ thuật trong tiếng Việt như a-xít, phốt-pho, cu-roa, hay pít-tông chẳng hạn, về âm hưởng và/hoặc chữ viết đều mang đặc điểm Ấn-Âu rõ rệt, và do đó, không người Việt nào có thể ngộ nhận chúng là từ bản ngữ. Sự nhận thức về tính chất ngoại lai của các từ vay mượn cũng đặc biệt rõ nét ở những người có năng lực ngôn ngữ gốc (ngôn ngữ xuất phát của các yếu tố ngoại lai). Một người biết tiếng Pháp chẳng hạn, đương nhiên sẽ ý thức được tính ngoại lai của các từ tiếng Pháp được vay mượn vào tiếng Việt như mùi soa, xà phòng hay bốt. Người Việt không có năng lực ngôn ngữ gốc có thể sẽ không nhận ra tính ngoại lai của các từ như đui (đèn) săm, lốp, bơm (mượn của tiếng Pháp), hay đầu, ghế, điện (mượn của tiếng Hán). Bởi vậy, khi xét các yếu tố từ vựng ngoại lai, ít nhất ta cần phân biệt: 1/ những yếu tố đã được bản ngữ hóa cao độ khiến chúng có thể hoàn toàn được coi là từ bản ngữ, không gây nên sự phản kháng của hệ thống bản ngữ; 2/ những yếu tố mà dưới một góc độ nào đó (ví dụ như góc độ ngữ âm hay ngữ nghĩa) vẫn khác biệt khá rõ ràng với các yếu tố bản ngữ, và do đó, vẫn rất giống với các yếu tố của ngôn ngữ gốc, và 3/ những yếu tố ít hoặc không được bản ngữ hóa và do đó còn giữ được những đặc trưng cơ bản của yếu tố ngôn ngữ gốc. Những yếu tố ngoại lai thuộc loại thứ hai thường tạo nên những vùng “đặc hữu” trong hệ thống từ vựng, nơi mà hệ thống bản ngữ bị vi phạm ở một mức độ nào đấy, đủ khiến cho người bản ngữ cảm thấy chúng có sự dị biệt với các yếu tố của tiếng mẹ đẻ. Các từ như ma-két-tinh mượn của tiếng Anh hay thảo dân của tiếng Hán đi vào tiếng Việt như là những yếu tố xa lạ, chúng chỉ quen thuộc với những người thường xuyên tiếp xúc với chúng. Trong trường hợp ma-két-tinh thì đó chủ yếu là các nhà kinh doanh hoặc những người làm những công việc liên quan đến kinh doanh, còn ở trường hợp thứ hai thì đó chủ yếu là những người thường xuyên xem phim lịch sử, phim dã sử hay phim kiếm hiệp của Trung Quốc. Trái lại, loại từ thứ nhất, vốn chiếm đa số trong toàn bộ vốn từ ngoại lai của từ vựng toàn dân, hầu như chỉ còn giữ được tính ngoại lai trong một bộ phận người bản ngữ – những người vốn nắm được lai lịch của chúng nhờ năng lực ngôn ngữ gốc hoặc thông qua việc tìm tòi, nghiên cứu. Những từ này, xét về hình thức, giá trị ngữ nghĩa cũng như cách hoạt động, hoàn toàn giống như những từ bản ngữ. Sự bản ngữ hóa cao độ các yếu tố ngoại lai là lí do cơ bản khiến cho ngôn ngữ vẫn bảo toàn được bản sắc riêng của nó và không bị hòa lẫn vào các thứ tiếng khác, hoặc không trở thành một thứ ngôn ngữ pha tạp kiểu “ngôn ngữ Pidgin”. Như vậy, có thể nói, không có sự thuần nhất trong cái gọi là lớp từ vựng ngoại lai, xét cả trên phương diện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Bởi vậy, theo chúng tôi, sẽ hợp lí hơn nếu sử dụng khái niệm vùng từ vựng ngoại lai để thay thế cho khái niệm lớp từ vựng vẫn đang được sử dụng.

Nói về sự bản ngữ hóa các yếu tố ngoại lai, người ta thường chú ý nhiều nhất đến sự bản ngữ hóa mặt ngữ âm của chúng, và thường có quan niệm chung là khi các yếu tố ngoại lai được bản ngữ hóa cao độ về mặt ngữ âm thì đương nhiên sẽ được những người sử dụng ngôn ngữ bình thường tiếp nhận như là những yếu tố của bản ngữ. Tuy nhiên, trong thực tế, ngữ âm chỉ là một mặt của vấn đề, tuy có thể đó là mặt quan trọng nhất. Một yếu tố ngôn ngữ nước ngoài khi đi vào một ngôn ngữ còn chịu sự chi phối rất lớn của những quá trình khác, đặc biệt là quá trình liên quan đến mặt ngữ nghĩa của yếu tố đó. Để bảo đảm rằng một yếu tố ngoại lai được bản ngữ hóa cao độ, người ta thường bổ sung thêm cho nó những đặc trưng ngữ nghĩa (nét nghĩa hoặc thành phần ý nghĩa) hoặc thay đổi thành phần nét nghĩa cho phù hợp với hệ thống ngữ nghĩa của bản ngữ. Sự bổ sung hay thay đổi ý nghĩa này có thể thực hiện được trước hết phải nhờ vào hình thức ngữ âm đã được bản ngữ hóa. Khi người Việt bản ngữ hóa mặt ngữ âm của từ thurel trong tiếng Khơme thành sầu riêng trong tiếng Việt thì không chỉ cái âm thanh của từ này nghe rất Việt mà giá trị ngữ nghĩa của nó cũng thay đổi: Nó không chỉ còn là vỏ âm thanh đại diện cho sự vật là “cây sầu riêng” trong thực tế khách quan mà sầu riêng còn có nghĩa là nỗi sầu riêng của một người nào đó. Đấy chính là cái lí do cho sự hình thành một câu chuyện tình diễm lệ đầy nước mắt của một chàng trai Việt Nam và một cô gái Cămpuchia mà đoạn kết là: Sau khi vợ mình chết, chàng trai Việt mang cây thurel, tức sầu riêng, về trồng trên đất quê hương để tưởng nhớ tới nàng. Đó cũng là cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật có những nốt buồn mênh mang như “Lá sầu riêng”hay “Cây sầu riêng trổ bông”. Trong tiếng Trung Quốc cũng vậy, tên gọi nước ngoài thường được đọc theo âm của những từ hoặc hình vị cấu tạo từ tiếng Trung, do đó các yếu tố ngoại lai trở nên có nghĩa: Měi guó (Mĩ Quốc= nước Mĩ) là tên riêng trong đó Měi có nghĩa là đẹp, còn guó là quốc hay nước; hay từ Mă Lì (Mã Lệ) là cách phiên âm cái tên Mary hay Marie, trong đó Mã có nghĩa là ngựa (có kèm theo bộ vương) và Lì (Lệ) có nghĩa là nước mắt. Thực tế này cũng đã từng xảy ra phổ biến trong tiếng Việt trước đây, khi các tên nước ngoài được phiên âm từ tiếng Hán, ví dụ: Nã Phá Luân, Kha Lệ Ninh, Kha Luân Bố, Ba Lê, Mạc Tư Khoa. Trong những trường hợp như vậy, sự tri nhận các yếu tố ngoại lai thường phải dựa vào tính lôgích của các kết hợp, hay nói đúng hơn, tính phù hợp ngữ nghĩa của các kết hợp. Sở dĩ người Việt trước đây tiếp nhận Mạc Tư Khoa hay Kha Luân Bố là tên nước ngoài là do họ không thấy có lí do chính đáng nào để biện minh cho sự kết hợp của các yếu tố có nghĩa mạc, tư và khoa, hay kha, luân, bố lại với nhau, và đó cũng là cách họ nhận ra tính chất ngoại lai của các từ này. Tương tự, người Trung Quốc nhận ra Bō yīn (Boeing) không phải là từ của tiếng Trung là do họ không thể lí giải cái cách cấu tạo kì lạ của từ này: yếu tố bō có nghĩa là sóng, còn yīn nghĩa là âm thanh, do đó cái cảm thức ngôn ngữ chung mách bảo cho họ rằng đây phải là một từ ngoại lai. Như vậy, có thể thấy rằng sự nhận diện các yếu tố ngoại lai không chỉ được thực hiện nhờ vào các đặc trưng ngữ âm của yếu tố ngoại lai mà còn phải dựa vào các đặc trưng ngữ nghĩa của chúng.

Nói về mặt ngữ nghĩa hay ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, ngôn ngữ học truyền thống thường tập trung vào mối quan hệ giữa vỏ âm thanh của đơn vị ngôn ngữ với những gì mà chúng biểu thị trong thực tế khách quan (sự vật, hiện tượng hay khái niệm, v.v.). Mối quan hệ đó thường được xem xét trong một môi trường riêng rẽ, hoặc nếu có sự liên hệ với các đơn vị khác thì đó thường chỉ là những quan hệ nội ngôn ngữ như quan hệ đồng nghĩa (cùng biểu thị sự vật, hiện tượng hay khái niệm), hay quan hệ trường nghĩa (các sự vật, hiện tượng được bao hàm trong cùng một nội dung khái niệm). Ngữ dụng học (hay Ngữ nghĩa học theo nghĩa rộng) tuy có tiến thêm một bước để đặt ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ trong mối liên hệ với các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp ngôn ngữ nhưng cũng không làm thay đổi cách tiếp cận ngữ nghĩa học đối với vấn đề ý nghĩa trong ngôn ngữ, bởi vì thực tế, các ý nghĩa ngữ dụng của các đơn vị ngôn ngữ cũng chỉ là những nét nghĩa bổ sung có tác dụng mở rộng hay thu hẹp ý nghĩa cơ bản của đơn vị ngôn ngữ mà thôi. Chẳng hạn, từ “con cò” tuy có thể có những ý nghĩa ngữ dụng khác nhau trong các ngôn ngữ [tiếng Viêt: Ngoài ý nghĩa “là loài chim chân cao, cổ dài, mỏ nhọn thường sống ở gần nước và ăn các động vật nhỏ ở nước” còn là biểu tượng cho thân phận nhỏ bé, vất vả, siêng năng, và là người bạn của nông dân, trong khi ở một số ngôn ngữ khác nó lại là biểu tượng của hòa bình, hạnh phúc, hay thậm chí là nguồn gốc của con người (trẻ con không sinh ra mà do cò tha về)]. Nhưng sự khác nhau đó, suy cho cùng, luôn nằm trong mối liên hệ với một đặc điểm nào đó của con cò, tức là vẫn xoay quanh bản thân các sự vật hay hiện tượng trong thực tế khách quan mà từ biểu thị. Như vậy, ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ luôn luôn được xem xét trong mối quan hệ với thực tế khách quan, tuy có sự khác biệt trong cách nhìn hiện thực khách quan đó ở những dân tộc khác nhau. Cách tiếp cận như vậy với vấn đề ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ có thể cho phép phát hiện một số đặc điểm của các ngôn ngữ trong việc thiết lập mối quan hệ giữa vỏ âm thanh của ngôn ngữ và hiện thực, hay là cách sử dụng các âm thanh của ngôn ngữ để biểu thị hiện thực. Việc gắn ý nghĩa của từ với sự vật, hiện tượng, khái niệm hay đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng thường xuất phát từ một quan niệm trong triết học ngôn ngữ: Ý nghĩa của từ là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong ngôn ngữ. Đó là quan niệm của nhận thức luận, một lĩnh vực nghiên cứu vừa mang tính chất triết học vừa mang tính chất tâm lí học. Quan niệm này có những điểm bất hợp lí, bởi vì ý nghĩa của từ không đơn giản chỉ là sự phản ánh của thế giới vào trong ngôn ngữ mà còn là sự tri nhận thế giới của từng ngôn ngữ hay từng dân tộc. Ngữ nghĩa học tri nhận đã bổ sung cho những thiếu sót đó: Ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ cần phải được xem xét trong một mạng lưới quan hệ giữa con người, ngôn ngữ và hiện thực. Chúng ta có thể nắm bắt được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ thông qua việc tìm hiểu những quan niệm hay cách nhìn của ngôn ngữ đối với hiện thực khách quan. Vì vậy, hạt nhân của quan niệm ngữ nghĩa học tri nhận về ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ là khái niệm bức tranh ngôn ngữ về thế giới mang đặc điểm dân tộc, không giống nhau ở các ngôn ngữ hay các nền văn hóa khác nhau. Sự khác biệt trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới không chỉ thể hiện ở sự khác nhau trong cách gọi tên các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan mà còn ở cách tri nhận hiện thực của mỗi cộng đồng. Đó là sự hội tụ của những tinh thần dân tộc được biểu hiện qua ngôn ngữ.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi đi vào một ngôn ngữ khác, các yếu tố ngôn ngữ gốc bị thay đổi cả về ý nghĩa. Tuy nhiên, sự thay đổi về ý nghĩa ở đây không chỉ là những thay đổi đơn giản theo cách hiểu của ngữ nghĩa học truyền thống mà theo cách hiểu của ngữ nghĩa học tri nhận. Đó là sự thay đổi về bức tranh thế giới của ngôn ngữ gốc ở những mảng thực tế được biểu hiện bởi chính những yếu tố đó. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các yếu tố ngoại lai với các yếu tố bản ngữ không chỉ giới hạn ở sự khác biệt ngữ âm mà cả ở sự khác biệt trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Do vậy, bản ngữ hóa các yếu tố ngoại lai không dừng lại ở việc bản ngữ hóa vỏ âm thanh của các yếu tố ngoại lai mà là một quá trình hết sức phức tạp để làm biến đổi mối quan hệ giữa con người, ngôn ngữ và hiện thực qua các mối quan hệ liên ngôn ngữ. Vì vậy, trong phạm vi bài báo này, bên cạnh khái niệm ý nghĩa, chúng tôi sẽ sử dụng khái niệm bức tranh ngôn ngữ về thế giới hoặc bức tranh thế giới của ngôn ngữ để làm rõ sự thay đổi các mối quan hệ đó trong lĩnh vực từ vựng ngoại lai.

2. Quan hệ liên ngôn ngữ – Từ sự ngữ nghĩa hóa đến sự phân hóa các vùng ngoại lai
Mỗi quốc gia hay mỗi dân tộc đều có một vị trí địa-chính trị riêng của mình và các mối quan hệ với các quốc gia hay dân tộc khác đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của những điều kiện địa-chính trị ấy. Ta hãy lấy Việt Nam làm ví dụ. Do vị trí địa-chính trị đặc biệt của mình, Việt Nam là một trong số ít những quốc gia trên thế giới đã trở thành nơi hội tụ, gặp gỡ của nhiều tinh thần văn hóa-chính trị khác nhau, trong đó sự gặp gỡ của tiếng Việt với các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau là một trong những yếu tố gây tác động mạnh mẽ nhất đến đời sống xã hội của cộng đồng người Việt Nam. Sự đối với lập về ngôn ngữ cũng có thể coi là sự đối lập rõ rệt nhất giữa các cặp phạm trù như Đông-Tây, Bắc-Nam, Nam-Nam. Những gì chúng ta đã quen biết về các thế đối lập như: ngôn ngữ đơn lập/ngôn ngữ tổng hợp; ngôn ngữ không biến hình/ngôn ngữ biến hình; ngôn ngữ đơn lập/ngôn ngữ chắp dính; ngôn ngữ đơn tiết/ngôn ngữ đa tiết đều được quy tụ ở đây, trong không gian của tiếng Việt. Trong không gian ngôn ngữ này, chúng ta thấy hiện hữu các yếu tố của một lọat ngôn ngữ như: tiếng Trung (tiếng Hán), tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hàn, tiếng Khơme, tiếng Nhật, tiếng Thái… Dấu tích cụ thể của sự hội ngộ ngôn ngữ này là một tỉ lệ lớn các từ ngoại lai mượn của các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau trong tiếng Việt. Nhìn bề ngoài và nếu chỉ xét riêng về tỉ lệ các từ ngoại lai, người ta có thể coi tiếng Việt bản địa chỉ là dấu tích còn lại của một thứ tiếng Việt xa xưa, bởi vì tổng cộng có tới khỏang 80% đơn vị từ vựng trong thứ tiếng này là từ vay mượn của các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, tình hình thực tế không cho phép ta khẳng định điều đó, vì xét về mặt đồng đại, đa số các từ ngoại lai trong tiếng Việt không còn mang những nét đặc trưng của các ngôn ngữ gốc mà chủ yếu mang những nét đặc trưng (ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp) của tiếng Việt, do đó trong nhiều trường hợp, ngay cả người bản ngữ cũng khó nhận ra tính chất ngoại lai của chúng. Điều đó có thể thực hiện được là do quá trình đồng hóa hay bản ngữ hóa các yếu tố ngoại lai.

Đồng hóa hay bản ngữ hóa các yếu tố ngoại lai là một quá trình diễn ra trên tất cả các phương diện: ngữ âm-âm vị, hình vị, từ vị, và ngữ pháp, trong đó sự đồng hóa ngữ nghĩa các đơn vị từ vựng có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiếng Việt. Nếu như sự đồng hóa ngữ âm-âm vị tạo cho các yếu tố ngoại lai diện mạo của những đơn vị từ vựng tiếng Việt thì sự đồng hóa ngữ nghĩa, về nguyên tắc, làm cho chúng phù hợp với hệ thống giá trị ngữ nghĩa của vốn từ vựng tiếng Việt, khiến cho sự tồn tại của chúng trong tiếng Việt không phá vỡ tính hệ thống của vốn từ vựng trong ngôn ngữ này. Tuy nhiên, vấn đề đồng hóa ngữ nghĩa trong tiếng Việt không chỉ đơn giản như vậy, vì rằng còn có một số yếu tố khác tác động vào quá trình này. Sau đây chúng tôi xin nêu ra một ví dụ: Sự tác động của các yếu tố địa-chính trị tới quá trình đồng hóa ngữ nghĩa các yếu tố ngoại lai.

Xét về mặt quan hệ với những ngôn ngữ đã để lại dấu ấn ngoại lai hiện nay trong tiếng Việt, ta có thể nhận thấy một điều: tiếng Việt có sự phân biệt về mặt địa-chính trị đối với các ngôn ngữ đó. Sự phân biệt này dường như đã tạo ra một thứ chiến lược bất thành văn đối với việc du nhập các yếu tố ngoại lai. Những ngôn ngữ mà do những điều kiện địa-chính trị có ảnh hưởng nhiều nhất đến tiếng Việt, đều được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống tiếng Việt. Hệ thống kiểm soát này là sự bảo đảm cho sự sống còn của tiếng Việt. Tiếng Trung (tiếng Hán), do những điều kiện địa-chính trị đặc biệt, đã ảnh hưởng vô cùng to lớn đến tiếng Việt trong lĩnh vực từ vựng. Phần lớn các yếu tố ngoại lai trong tiếng Việt là những yếu tố gốc Hán (chiếm khoảng trên 60% toàn bộ vốn từ vựng tiếng Việt). Xét trên phương diện lí thuyết, ảnh hưởng to lớn của tiếng Hán đối với tiếng Việt có thể đe dọa sự tồn vong của bản thân tiếng Việt. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra. Sự xâm nhập các yếu tố gốc Hán vào tiếng Việt đã không phá vỡ hệ thống và cũng không đe dọa sự tồn vong của nó. Đó là vì các yếu tố tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được kiểm soát chặt chẽ và có ý thức, không chỉ về mặt phát âm mà cả về mặt ngữ nghĩa: các yếu tố tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt nói chung đã bị thay đổi ý nghĩa theo những cách thức khác nhau, khiến cho những yếu tố vay mượn đó trong tiếng Việt có sự khác biệt với các yếu tố ngôn ngữ gốc. Sự khác biệt này là biểu hiện của sự thay đổi trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới: Cách tri nhận thế giới của tiếng Hán bị thay đổi cho phù hợp với bức tranh thế giới của tiếng Việt. Và chính điều đó đã khiến cho các yếu tố gốc Hán có thể hoạt động trong hệ thống tiếng Việt giống như bất kì một từ thuần Việt nào, cho dù tính chất ngoại lai vẫn được duy trì ở một mức độ nào đó khiến chúng có thể được nhận biết như những yếu tố ngoại lai: chúng trở thành những yếu tố chịu sự chi phối của hệ thống tiếng Việt. Khi sử dụng các từ gốc Hán, người Việt không còn giữ mối liên hệ với ngôn ngữ gốc, mặc dù tính chất ngoại lai của chúng có thể vẫn được tri nhận. Từ bác sĩ chẳng hạn, trong tiếng Trung vốn có nghĩa là tiến sĩ. Người có học vị tiến sĩ được người Trung Quốc nhìn nhận như là người học (sĩ) rộng (bác). Như vậy, ý nghĩa của từ này được người Trung Quốc tri nhận một cách rõ ràng, hay nói cách khác, bức tranh ngôn ngữ về thế giới trong mảng hiện thực này của người Trung Quốc rất rõ nét. Trong khi đó ý nghĩa của từ tiến sĩ lại được người Việt Nam tri nhận hết sức mờ nhạt, do chỗ người ta không thể giải thích ý nghĩa của từ này theo cách thông thường: dựa vào hệ thống cấu tạo từ, nghĩa là không thể giải thích ý nghĩa của từ tiến sĩ bằng cách dựa vào ý nghĩa chung của kiểu cấu tạo từ chứa hậu tố sĩ như: đại học sĩ, viện sĩ, hay chiến sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, … Mặt khác, khi đi vào tiếng Việt, từ bác sĩ của tiếng Hán lại mang ý nghĩa là thày thuốc. Như vậy, bác sĩ được người Việt tri nhận là người chữa bệnh chứ không phải là người học rộng. Sự tri nhận này sở dĩ có được là do người Việt đã thoát ra khỏi cái bức tranh ngôn ngữ về thế giới của người Trung Quốc để thay đổi ý nghĩa của từ bác sĩ: hầu như yếu tố bác của tiếng Hán đã bị triệt tiêu nghĩa trong tiếng Việt, khiến người Việt chỉ hiểu được cái nghĩa tổng thể của từ bác sĩ mà thôi. Đó cũng chính là sự khác biệt giữa hai từ bác sĩ và thày thuốc trong tiếng Việt. Sự khác biệt giữa hai từ này trong tiếng Việt không phải là sự khác biệt về cái biểu vật hay biểu niệm. Đó là sự khác biệt về độ nét của bức tranh ngôn ngữ về thế giới: ý nghĩa của bác sĩ được người Việt tri nhận hết sức mờ nhạt, còn thày thuốc được tri nhận rất rõ nét, do ý nghĩa của nó có thể được giải thích dựa vào hệ thống cấu tạo từ của tiếng Việt, so sánh: thày cúng, thày bói, thày giáo, thày địa lí, thày tướng số…, trong khi từ bác sĩ (cũng giống như từ tiến sĩ đã nói ở trên) không thể được tri nhận như vậy. Ngược lại, từ đại phu trong tiếng Trung (là từ tương đương của bác sĩ trong tiếng Việt) được người Trung Quốc tri nhận một cách rõ nét là người đàn ông/người chồng (phu) lớn (đại). Tuy nhiên, sự thay đổi bức tranh ngôn ngữ về thế giới trong trường hợp vay mượn này không chỉ được biểu hiện ở sự thay đổi tên gọi của sự vật hay hiện tượng mà còn ở cách thức phạm trù hóa hiện thực ở hai ngôn ngữ. Sự thay đổi này là nguyên nhân dẫn đến những khác biệt về cách thức hoạt động của các yếu tố ngoại lai so với các yếu tố gốc. Ví dụ: Từ phi thường (được phát âm là [fēicháng]) trong tiếng Trung vốn có nghĩa là rất, vô cùng, khác thường và là một phó từ, nhưng khi vào tiếng Việt, nó chỉ có nghĩa là rất khác thường, đặc biệt khác thường và chỉ được sử dụng như là một tính từ, cho nên người Việt không thể nói phi thường nhiệt tình như trong tiếng Trung. Hiện tượng này làm cho người Việt học tiếng Trung hay người Trung Quốc học tiếng Việt có thể phạm lỗi khi sử dụng những yếu tố loại này do sự ngộ nhận về sự tương đồng ngữ nghĩa của chúng.

Xét một cách tổng thể, có thể nói rằng, việc đồng hóa ngữ nghĩa các yếu tố ngoại lai gốc Hán chủ yếu dựa trên nguyên tắc: Việt hóa cơ bản nhưng không làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc âm thanh của các yếu tố vay mượn (gọi là nguyên tắc đọc từ tiếng Hán theo âm Hán-Việt), và thay đổi bức tranh ngôn ngữ về thế giới được biểu hiện qua các yếu tố đó. Nguyên tắc này khiến cho một mặt, các yếu tố gốc Hán có thể hoạt động giống như các yếu tố thuần Việt nhưng mặt khác, vẫn duy trì ở một mức độ nhất định tính chất ngoại lai của chúng. Điều đó tạo ra một vùng ngoại lai đặc trưng cho quan hệ liên ngôn ngữ Hán-Việt, và mặc dù vùng ngoại lai này rất rộng nhưng hệ thống của tiếng Việt vẫn được bảo vệ.

Trong khi đó tình hình vay mượn các yếu tố của những ngôn ngữ có quan hệ họ hàng với tiếng Việt như tiếng Khơme hay tiếng Thái có vẻ không khắt khe như vậy. Có thể quan sát thấy rằng, do có sự tiếp xúc thường xuyên với tiếng Khơme, phương ngữ Nam Bộ đã vay mượn một số từ của tiếng Khơme. Sự vay mượn này không tuân theo những quy tắc chặt chẽ như trong trường hợp vay mượn các yếu tố của tiếng Hán. Có thể đó là do trong trường hợp này, sự phản vệ của tiếng Việt đối với sự xâm nhập của các yếu tố ngoại lai không gay gắt như trong trường hợp tiếng Hán: Không có sự đe dọa đến sự tồn vong của tiếng Việt từ phía các ngôn ngữ nêu trên. Xu hướng chung trong việc vay mượn các từ gốc Khơme hay Thái là Việt hóa chúng cao độ, tới mức có thể coi chúng như những yếu tố thuần Việt. Sự Việt hóa cao độ trước hết thể hiện ở việc thay đổi căn bản mặt ngữ âm, và trên cơ sở đó, Việt hóa về mặt ngữ nghĩa. Tuy nhiên, sự Việt hóa về mặt ngữ âm các yếu tố ngoại lai ở vùng này diễn ra khá tùy tiện. Chẳng hạn, trong tiếng Khơme, có nhiều từ chứa nhóm phụ âm ở vị trí âm đầu. Khi mượn vào tiếng Việt, người ta có thể âm tiết hóa một phụ âm trong nhóm nhưng cũng có thể âm tiết hóa toàn bộ nhóm phụ âm của từ, ví dụ: khnhớch → cà nhắc, hay chrohom → chồm hỗm. Sự bản ngữ hóa về mặt ngữ âm như vậy tạo cho các từ vay mượn này diện mạo của từ thuần Việt. Đương nhiên, sự âm tiết hóa phụ âm hay nhóm phụ âm không phải là việc bất thường trong tiếng Việt: Khi vay mượn những từ gốc Ấn-Âu có chứa các phụ âm cuối hay nhóm phụ âm, chúng ta cũng thường có xu hướng âm tiết hóa chúng như vậy. Với một từ tiếng Pháp như fromage (phó mát), nếu giữ nguyên cấu trúc ngữ âm của nó hoặc chỉ thay đổi chút ít như khi Việt hóa các từ gốc Hán, thì phản ứng tiêu cực của tiếng Việt là điều không thể tránh khỏi. Cho nên, chúng ta đã âm tiết hóa nhóm phụ âm [fr] và bổ sung cho nó một thanh điệu (thanh sắc). Hiện tượng âm tiết hóa này cũng quan sát được ở những ngôn ngữ khác, ví dụ như trong tiếng Nhật. Người Nhật hầu như luôn luôn âm tiết hóa các phụ âm cuối của những từ vay mượn gốc Ấn-Âu, ví dụ: hot milk (sữa nóng) trong tiếng Anh được người Nhật phát âm thành hoto miruko, hay good morning thành gudo moruningo (hoặc moningo).

Điều đáng nói ở đây là: Việc âm tiết hóa các phụ âm có nguồn gốc Môn-Khơme có xu hướng được gắn với việc ngữ nghĩa hóa các âm tiết đó, khiến chúng trở thành các hình vị cấu tạo từ hoặc ít nhất cũng có hình thức của các hình vị cấu tạo từ. Nói cách khác, các phụ âm hay nhóm phụ âm được âm tiết hóa đó có thể được đưa vào các hệ thống hình vị cấu tạo từ dùng để tạo ra các kiểu cấu tạo từ của tiếng Việt. Chẳng hạn, xét về mặt cấu tạo hình thức, từ ba lăng nhăng (t. Khơme: blanhang) có chứa âm tiết ba, hay từ cà nhắc (t. Khơme: khnhơch) có chứa âm tiết cà vốn không có nghĩa, vì đó chỉ là những âm vị đã được âm tiết hóa. Song, do một loạt các từ tiếng Việt được cấu tạo theo kiểu như vậy nên người Việt vẫn tiếp nhận chúng như là những hình vị cấu tạo từ, so sánh: ba hoa, ba gai, ba láp, ba que, ba trợn, ba vạ; cà khịa, cà lăm, cà lơ, cà mèng, cà rà, cà rỡn. Và như trên đã nói, do sự tiếp xúc thường xuyên với tiếng Khơme, phương ngữ Nam Bộ đã hình vị hóa các âm tiết như vậy, và sự pha trộn chúng với các yếu tố vay mượn từ những nguồn khác đã tạo ra một vùng ngoại lai đặc hữu của phương ngữ này, khiến qua đó, người các vùng khác có thể nhận ra đặc điểm địa phương của người sử dụng ngôn ngữ, ví dụ: cà trớn, cà lăm, cà khổ, cà tàng, cà nhắc, hay ba trợn, ba láp, ba tú, ba tóe. Điều cần phải nhấn mạnh là: Tính chất địa phương của các yếu tố ngoại lai lại khiến cho chúng được tiếp nhận như là những yếu tố bản ngữ nhiều hơn, vì có vẻ “của nhà làm” hay “dân dã” hơn.

Như vậy, có thể thấy rằng, sự vay mượn trong ngôn ngữ tuân theo một chiến lược mang tính chất địa-chính trị. Xét về mặt này, các vùng ngoại lai được tạo ra qua quan hệ liên ngôn ngữ giữa tiếng Việt với tiếng Pháp, tiếng Nhật hay tiếng Hàn Quốc thể hiện khá rõ quan điểm vay mượn của tiếng Việt. Với một thời gian đô hộ trên tám mươi năm, tiếng Pháp, và thông qua nó là các ngôn ngữ Ấn-Âu khác, đã để lại trong tiếng Việt một vùng ngoại lai rộng lớn hơn nhiều so với tiếng Nhật hay tiếng Hàn Quốc, vốn là những ngôn ngữ gần gũi với tiếng Việt hơn nhiều, vì ít nhất thì chúng cũng có một đặc điểm chung là cùng chịu ảnh hưởng khá lớn của tiếng Hán. Như vậy, đã xảy ra điều trái ngược. Nhưng điều thực sự đáng nói ở đây là: Dấu ấn của tiếng Nhật hay tiếng Hàn trong tiếng Việt mang nhiều tính ngoại lai hơn tiếng Pháp hay tiếng Anh. Người Việt vẫn nhận ra cái âm hưởng của tiếng Nhật khi đọc/nói hay nghe thấy các từ có nguồn gốc tiếng Nhật như giuđô, karateđô, sumô, hay kimônô. Tiếng Hàn Quốc hiện đại để lại một số tên gọi như daewoo, hyundai hay samsung cùng với rất nhiều những tên riêng qua các phim truyền hình nhiều tập. Món ăn kim chi có lẽ là một trường hợp hiếm gặp khi một từ tiếng Hàn Quốc được người Việt biết đến với một vỏ âm thanh có vẻ “người nhà” hơn. Chính sự đứt quãng lâu dài trong quan hệ của tiếng Hàn Quốc với tiếng Việt, mà chủ yếu do quan hệ địa-chính trị, tiếng Hàn không có ảnh hưởng sâu rộng đối với tiếng Việt như ảnh hưởng của kinh tế Hàn Quốc đối với kinh tế Việt Nam. Những yếu tố ngoại lai có nguồn gốc từ những ngôn ngữ có quan hệ với tiếng Việt trong thời gian gần đây thường không được Việt hóa cao độ, do đó khi hoạt động thường phải có sự trợ giúp của các yếu tố bản ngữ, ví dụ: món kim chi, bệnh karôsi hay áo kimônô. Thiếu đi sự trợ giúp của những yếu tố bản ngữ đó, bức tranh ngữ về thế giới của người Việt trong những trường hợp này sẽ rất mờ nhạt. Ví dụ điển hình là câu chuyện tiếu lâm về món karaôkê ở một nhà hàng nọ vài năm trước. Với một mức độ bản ngữ hóa ít ỏi như vậy, trong khi hoạt động, những từ ngoại lai này cũng thường không chịu sự chi phối của hệ thống tiếng Việt nhiều như trường hợp của các từ gốc Hán, Pháp hay Khơme. Một từ tiếng Pháp chẳng hạn, tuy về nguyên tắc phải rất khác biệt với từ thuần Việt, nhưng do đã được Việt hóa cao độ nên không những có được một âm hưởng giống như một từ tiếng Việt mà còn có khả năng hoạt động giống như một từ của tiếng Việt: Các âm tiết có thể được tách ra khỏi từ như là những hình vị cấu tạo từ, nghĩa là chúng có một giá trị ngữ nghĩa nào đấy. Trong tiếng Pháp, cấu trúc của từ mangouste (măng cụt) là cấu trúc một hình vị cấu tạo từ gồm hai âm tiết và các âm tiết đó không thể tách khỏi nhau để hoạt động độc lập. Trong tiếng Việt, tình hình khác hẳn: Người Việt có thể tách các âm tiết của từ này theo một vài cách khác nhau, ví dụ: măng cụt măng cọt; măng với cụt gì; hay măng với chả cụt. Trong ví dụ trên đây, rõ ràng là các âm tiết trống nghĩa của tiếng Pháp đã được gán cho một ý nghĩa ngữ dụng (ví dụ: để đánh giá tiêu cực về chất lượng của quả măng cụt), và thậm chí còn có thể được tri nhận như là những từ gốc của tiếng Việt, như trong cách giải thích của một số người ở miệt vườn Nam Bộ là “cây có những nhánh măng bị cụt”. Vì lí do đó, các từ ngoại lai du nhập từ tiếng Pháp có thể hoạt động không khác gì một từ thuần Việt. (So sánh: bạn bè → bạn với chả bè, bạn với bè gì.). Điều này càng trở nên rõ rệt khi ta quan sát những trường hợp, trong đó các từ vay mượn được Việt hóa triệt để hơn bằng cách rút gọn âm tiết hay lược bỏ các yếu tố ngữ pháp đi kèm (ví dụ như quán từ chẳng hạn), khiến chúng trở thành những từ đơn tiết như những từ gốc của tiếng Việt và có thể được dùng làm các hình vị cấu tạo từ đơn tiết. Từ nhà ga trong tiếng Việt là một ví dụ cho những trường hợp như vậy. Từ dạng gốc là la gare trong tiếng Pháp, nhà ga trong tiếng Việt thực sự đã trở thành một từ mang đặc trưng tiếng Việt về mọi phương diện. Ngày nay, hầu hết người Việt đều không còn cảm thấy tính chất ngoại lai của từ này, do cấu trúc ngữ âm-ngữ nghĩa của nó. Ở đây, sự bản ngữ hóa không chỉ thể hiện ở việc lược bỏ cái âm [R] ở cuối từ, vốn không có trong tiếng Việt hiện đại, mà còn do cái yếu tố ngữ pháp là quán từ ‘la’, vốn được dùng để biểu thị các ý nghĩa ngữ pháp (ý nghĩa giống và số), được thay bằng yếu tố cấu tạo từ “nhà” rất Việt. Sự hiện diện của hình vị cấu tạo từ ‘nhà’ ở đây làm cho kết hợp nhà ga có cấu tạo rất giống như kiểu cấu tạo từ điển hình của một nhóm lớn các từ tiếng Việt như: nhà máy, nhà hàng, nhà thuốc, nhà xưởng, nhà xác, nhà thương,…Như vậy, trong tiếng Việt, ‘ga’hầu như đã trở thành một hình vị cấu tạo từ. Nói là hầu như vì tính độc lập của nó vẫn còn: Có thể nói: “Đi vào ga” hay “Đây là một ga xép” trong khi không thể làm như vậy với những từ có cấu tạo tương tự (nhưng là từ thuần Việt) như đã nêu ở trên, ví dụ không thể nói: “Đi vào máy” (với nghĩa đi vào nhà máy) hay “Đi vào thuốc” (với ý nghĩa đi vào nhà thuốc).

Như vậy, có thể thấy rằng, sự bản ngữ hóa các yếu tố ngoại lai không luôn luôn đi theo hướng phân biệt những ngôn ngữ gần gũi và ngôn ngữ xa lạ về mặt loại hình hay đơn thuần về mặt địa lí. Quá trình này tuân theo một chiến lược không dễ nhận diện. Quan hệ địa-chính trị chỉ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến quá trình này.

3. Quan hệ liên ngôn ngữ – từ tín hiệu hai mặt đến tín hiệu ba mặt

Quan niệm về tính chất hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có từ thời F. Saussure đã trở nên quá nổi tiếng và vì thế cũng quá ổn định trong ngôn ngữ học . Quan niệm này là cơ sở cho lí thuyết về tính võ đoán của ngôn ngữ, theo đó quan hệ giữa bình diện biểu hiện và bình diện ngữ nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ là quan hệ không có lí do. Đối với đại bộ phận các ngôn ngữ trên thế giới, dường như quan niệm về tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn có hiệu lực.

Tuy nhiên, quan niệm đó cần phải xem xét lại, chính vì có sự tồn tại của các quan hệ liên ngôn ngữ. Khi nói đến tính hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học hoặc tín hiệu học thường dựa trên bản chất của mối quan hệ giữa một vỏ âm thanh của ngôn ngữ với hiện thực khách quan hoặc/và với người sử dụng ngôn ngữ (từ đây chúng tôi sẽ gộp chung và gọi là hiện thực ngoài ngôn ngữ). Cái quan hệ đó dường như chỉ có tính chất hai chiều và dường như chỉ mang tính đồng đại. Song, trong thực tế, sự tri nhận quan hệ giữa một yếu tố ngôn ngữ với hiện thực ngoài ngôn ngữ không phải bao giờ cũng đơn giản như vậy.

Sự thật hiển nhiên là: đối với một số trường hợp, sự tri nhận ý nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ được thực hiện thông qua mối liên hệ ba chiều: hình thể chữ viết, âm thanh và ý nghĩa. Dĩ nhiên, sự liên hệ như vậy không thể có được ở những người mù chữ. Đối với những người biết chữ, sự liên hệ ba chiều đó cho phép họ tri nhận rất rõ nét bức tranh ngôn ngữ về thế giới, khiến họ có được một lợi thế là có thể thực hiện được những thao tác ngôn ngữ vượt ra ngoài những thao tác ngôn ngữ đơn thuần, trong đó chỉ có sự liên hệ giữa âm thanh và hiện thực ngoài ngôn ngữ. Khả năng liên hệ ba chiều đó khiến họ trở nên thông thái hơn trong cách thao tác ngôn ngữ. Điều này ta có thể thấy rõ nhất trong trường hợp những ngôn ngữ có chữ viết là chữ tượng hình hay tượng ý. Chẳng hạn, một người Trung Quốc biết chữ, khi thao tác từ trung (忠), không chỉ căn cứ vào âm thanh [zhò] mà còn phải biết rằng âm thanh này biểu đạt một khái niệm liên quan đến tình cảm, vì trên chữ viết, nó có chứa bộ tâm (心) do đó phải hiểu là trung thành chứ không thể hiểu là trung tâm (中). Sự liên hội giữa chữ viết và ý nghĩa của từ như thế này không chỉ dừng ở chức năng biểu đạt hiện thực khách quan của từ mà còn kéo theo cả chức năng biểu thị những quan niệm xã hội về hiện thực khách quan của từ. Chức năng này không được thể hiện qua âm thanh mà lại được thể hiện qua chữ viết. Ví dụ: Âm hảo (nghĩa là tốt) được ghi là 好 bao gồm chữ (女) (nữ) và chữ (子) (tử = con trai). Như vậy, tốt được người Trung Quốc quan niệm là phụ nữ và con trai. Quan niệm như vậy chỉ được thể hiện trên chiều kích thứ ba của tín hiệu: hình thể chữ viết. Do đó, sự lĩnh hội đầy đủ ý nghĩa của một từ chỉ diễn ra đối với những ai nắm được và có những hiểu biết nhất định về hệ thống chữ viết của tiếng Trung Quốc (tiếng Hán). Cũng chính vì việc lĩnh hội ý nghĩa của từ phụ thuộc cả vào kiến thức về văn tự nên có sự phân hóa về bức tranh thế giới của ngôn ngữ giữa những người cùng nói tiếng Trung. Bức tranh đó càng rõ nét và đầy đủ khi người sử dụng tiếng Trung có hiểu biết toàn diện hơn về hệ thống văn tự tiếng Trung cũng như lịch sử phát triển của nó. Và đây cũng chính là nguyên nhân vì sao nhiều người Việt Nam ngày nay khi sử dụng các từ gốc Hán đều có sự mơ hồ nhất định trong việc lĩnh hội ý nghĩa của các từ đó: Họ đã chuyển sang dùng hệ thống văn tự khác nên không còn giữ được khả năng liên hội ba mặt của một từ trong tiếng Hán; họ chỉ còn nhận ra mối quan hệ hai chiều giữa các tín hiệu ngôn ngữ mà thôi. Thiếu đi khả năng liên hội ba chiều của tín hiệu ngôn ngữ, một người Việt sẽ thiếu đi khả năng tri nhận những cách chơi chữ dùng chữ Hán của một số nhà văn, nhà thơ: Nếu không được một người am hiểu chữ Hán giải thích, người ta sẽ không nhận thấy cái hay cái đẹp của cách chơi chữ đó. Một ví dụ điển hình là nhiều người Việt khi đọc mấy câu thơ của Hồ Xuân Hương:
Tiên thiên chưa thấy nhô đầu trọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang”
đều chỉ lĩnh hội được cái nghĩa “nôm na xằng bậy” của câu thơ mà không tri nhận được cái trò chơi chữ thâm thúy của tác giả, một yếu tố làm cho câu thơ được nâng lên tầm cao của thơ bác học. Trò chơi chữ đó dựa vào chiều kích thứ ba của tín hiệu: chiều thị giác, tức là dựa vào mối quan hệ giữa các chữ thiên (天), phu (夫), liễu (了) và tử (予). Mối quan hệ này nếu diễn nôm thì chỉ có nghĩa là: chưa có chồng sao đã có con, và không có gì là “tục tĩu” cả. Như vậy, sự tri nhận trọn vẹn ý nghĩa của hai câu thơ trên phụ thuộc vào khả năng tri nhận mặt thứ ba của tín hiệu: chữ viết.

Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nói ở đây là: Chính trong các vùng ngoại lai, chiều kích thứ ba của tín hiệu ngôn ngữ mới biểu hiện một cách phổ quát hơn. Trong phạm vi từ vựng ngoại lai, nhờ có mối liên hệ giữa ba chiều kích của tín hiệu mà ý nghĩa của các yếu tố ngoại lai được tri nhận đầy đủ và rõ nét. Mất khả năng liên hội giữa ba mặt của tín hiệu: âm thanh – chữ viết – hiện thực (ngoài ngôn ngữ), người sử dụng ngôn ngữ chỉ tri nhận được phần nào bức tranh ngôn ngữ về thế giới được biểu hiện qua các tín hiệu ngôn ngữ. Hãy lấy trường hợp mátxa (tiếng Pháp: massage) làm ví dụ. Từ này được phát âm tách rời hai âm tiết thành mát xa. Xét về âm hưởng, mỗi âm tiết đó có diện mạo ngữ âm của những từ đơn tiết và thực tế là vỏ âm thanh của chúng hoàn toàn trùng khớp với hai từ mát và xa trong tiếng Việt. Đây chính là lí do khiến cho hai âm tiết này đã được ngữ nghĩa hóa trong một số trường hợp để trở thành hai từ độc lập. Một người Việt bình thường hầu như không nhận ra cái nguồn gốc nước ngoài của từ này, tuy rằng trong ý thức của họ, sự kết hợp giữa mát và xa có cái gì đó không ổn về mặt nghĩa. Điều không ổn ở đây là: dường như có sự không phù hợp ngữ nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên từ này, nếu xét trong hệ thống của tiếng Việt. Chính sự không phù hợp ngữ nghĩa của kết hợp này khiến cho người sử dụng cảm thấy khó hiểu cái lí do tồn tại của kết hợp đó, và điều này đã dẫn đến một thực tế là nhiều người có thói quen phát âm chệch từ này thành mát xoa cho nó có dáng dấp của một từ tiếng Việt hơn, bởi vì cùng với từ mátxa, đang song song tồn tại từ xoa bóp của “nội địa” mà ý nghĩa của nó luôn được tri nhận một cách rõ nét. Nhưng chính sự kết hợp mát với xoa lại tạo ra một âm hưởng ngoại lai hơn, bởi vì nghe nó “Pháp” hơn và sự không phù hợp ngữ nghĩa của kết hợp vẫn không được cải thiện. Thành thử, chỉ vì thiếu khả năng liên hội ba mặt của tín hiệu ngôn ngữ, người ta đã mất phương hướng trong việc tri nhận mặt ngữ nghĩa của từ ngoại lai. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới bị mờ đi, hoặc được nhìn nhận theo một cách mới. Song, mặt khác, khả năng liên hội ba chiều khi tiếp nhận các tín hiệu ngôn ngữ ngoại lai lại khiến cho người ta bị mất đi cái khả năng tri nhận bức tranh ngôn ngữ mới về thế giới trong tiếng Việt, được hình thành nhờ sự ngữ nghĩa hóa các yếu tố ngoại lai. Xu hướng ngữ nghĩa hóa các âm tiết Ấn-Âu trong tiếng Việt rất mạnh, và xu hướng này làm hình thành một cách tri nhận mới về ý nghĩa của các yếu tố ngoại lai. Đó là bức tranh dân gian về thế giới được biểu hiện qua các yếu tố ngoại lai. Ta có thể dẫn ra đây trường hợp ngữ nghĩa hóa hai âm tiết mát và xa trong mátxa khi dân gian muốn lật tẩy hay phê phán kiểu mátxa giả hiệu:

“Không đi không biết mát xa,
Đi thì mới biết hóa ra mát gần.”

Như vậy, có thể thấy, bức tranh ngôn ngữ về thế giới khi chuyển từ một ngôn ngữ châu Âu sang tiếng Việt đã có sự thay đổi căn bản: Từ mảng thực tế rất hẹp mà từ massage trong tiếng Pháp có thể biểu thị, chúng ta đến với một mảng thực tế rộng lớn hơn nhiều mà từ mát xa có thể biểu thị trong tiếng Việt. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới của tiếng Việt không chỉ phản ánh cái biểu niệm hay cái biểu vật của từ mà còn phản ánh cả những cách tri nhận khác nhau về mảng hiện thực được biểu hiện qua từ của người sử dụng ngôn ngữ nữa.

Trường hợp những từ ngoại lai như mít tinh mượn của tiếng Anh lại có một khía cạnh khác. Trong tiếng Anh, từ meeting có cấu trúc hai hình vị: căn tố động từ (meet = gặp, gặp gỡ) và phụ tố -ing có chức năng biểu thị ý nghĩa sự việc, và nhờ đó, nó biến động từ thành danh từ. Người nói tiếng Anh đều nhận thức được điều đó và đối với họ, bức tranh thế giới của ngôn ngữ trong trường hợp này rất rõ nét. Khi được mượn vào tiếng Việt, ý thức về cấu tạo hình vị (hay cách cấu tạo) của từ này đối với đại bộ phận những người sử dụng ngôn ngữ bình thường không còn nữa. Người ta chỉ tri nhận ý nghĩa của từ này một cách tổng thể, không có sự phân định cấu trúc hình vị cấu tạo từ, nghĩa là đối với họ, cả hai âm tiết này đều trống nghĩa, giống như một từ đơn đa tiết của tiếng Việt. Đây là cơ sở khiến cho “mít tinh” trong tiếng Việt có thể được sử dụng với một ý nghĩa không giống như trong tiếng Anh: Nó biểu thị một cuộc gặp gỡ đặc biệt, một sự tụ tập đông người để cùng bày tỏ một thái độ chung đối với một/những vấn đề quan trọng nào đấy, ví dụ như mít tinh phản đối chiến tranh chẳng hạn. Đây cũng chính là lí do tại sao khi người Anh hay người Mĩ nói “I have a meeting” (Tôi có một cuộc gặp/họp) thì người Việt cảm thấy lúng túng, không biết nên hiểu meeting ở đây là cuộc họp, cuộc gặp hay cuộc mít tinh. Muốn biết rõ, người ta buộc phải đề nghị người nói giải thích thêm hoặc phải dựa vào ngữ cảnh (nếu có). Như vậy, ở đây chúng ta bắt gặp hiện tượng triệt nghĩa. Hiện tượng triệt nghĩa đó làm cho bức tranh ngôn ngữ về thế giới của tiếng Anh bị thay đổi: nó bị thu hẹp lại rất nhiều trong tiếng Việt. Chỉ những người có năng lực ngôn ngữ gốc (tiếng Anh) mới có khả năng tri nhận đầy đủ ý nghĩa của từ này, nhờ vào sự liên hội ba mặt của tín hiệu ngôn ngữ như đã nói ở trên.

Trường hợp các yếu tố ngoại lai có nguồn gốc Hàn Quốc còn mang một đặc điểm khác nữa. Như trên đã nói, dẫu giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong lịch sử có nhiều mối quan hệ gần gũi hơn so với các nước Phương Tây, song do đặc điểm địa-chính trị, mối quan hệ này trở nên khá mờ nhạt trong một thời gian khá dài. Khi quan hệ được mở rộng, một số từ ngữ, đặc biệt là những tên riêng hay tên gọi các sản phẩm của Hàn Quốc, đã xâm nhập vào Việt Nam. Điều đáng nói là các yếu tố tiếng Hàn đó khi xâm nhập vào tiếng Việt thường được giữ nguyên dạng gốc về mặt phát âm, và được tiếp thu giống như những yếu tố vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn-Âu không được Việt hóa. Từ Daewoo chẳng hạn, nó được tiếp nhận như là một tên gọi hoàn toàn trống nghĩa trong tiếng Việt, và âm hưởng của nó được tiếp nhận như là một thứ âm thanh đặc trưng của tiếng Hàn, do sự xâm nhập ồ ạt của các tên gọi Hàn Quốc trên phim ảnh, trong đó có các âm thanh như kim, ching, woo, pắc, sung …lặp đi lặp lại và tạo ra một bức tranh ngữ âm nhất định của tiếng Hàn Quốc trong tâm thức người Việt. Trong thực tế, daewoo là một từ có nghĩa và được người sử dụng tiếng Hàn Quốc tiếp nhận như là một từ bình thường. Ta có thể so sánh trường hợp này với trường hợp tên gọi của công ti dệt Mùa Đông, hay khách sạn Hòa Bình trong tiếng Việt chẳng hạn. Song, trong trường hợp daewoo thì người Việt chỉ tiếp nhận như là một cái tên riêng trống nghĩa. Thực ra, daewoo là đại vũ, một tên gọi có nguồn gốc tiếng Hán: đại nghĩa là to, lớn, còn vũ nghĩa là vũ trụ/mưa. Và nếu có một kiến thức Hán học nhất định thì bức tranh ngôn ngữ về thế giới của từ này càng được tiếp nhận rõ nét hơn, bởi vì người biết tiếng Hán, ngoài khả năng tri nhận mối quan hệ hai chiều giữa âm thanh và hiện thực còn có thêm một chiều kích nữa của bức tranh ngôn ngữ về thế giới, đó là mối quan hệ giữa chữ viết (tiếng Hán) và ý nghĩa. Điều này cũng diễn ra tương tự với những trường hợp khác của tiếng Hàn, ví dụ như hyundai (hiện đại) hay samsung (ba sao) chẳng hạn.

Như vậy, sự ngữ nghĩa hóa và triệt nghĩa các yếu tố ngoại lai chính là nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới giữa những người sử dụng cùng một ngôn ngữ. Một người biết tiếng Anh chưa từng nghe lần nào ngữ đoạn “bảy úp” hay “uôn cúp” sẽ khó lòng hiểu được kết hợp đó có nghĩa là gì, và do đó họ chỉ tri nhận cái giá trị ngữ nghĩa của kết hợp đó giống như bất kì một người Việt nào. Có khác chăng là do sự kết hợp kì lạ, thiếu lôgích của các âm tiết đó mà họ có thể nhận ra đây là những yếu tố ngoại lai. Song, nếu có năng lực ngôn ngữ gốc và được tiếp xúc với chữ viết, họ sẽ tri nhận được giá trị ngữ nghĩa của các kết hợp tiếng Anh “seven up” hay “world cup” một cách rõ ràng. Tương tự như vậy, một người biết tiếng Hàn Quốc, có thể dễ dàng khôi phục được dạng chữ viết của các từ daewoo hay hyundai của tiếng Hàn đã bị Latinh hóa, khiến cho người không biết tiếng Hàn Quốc tiếp nhận chúng giống như những yếu tố Ấn-Âu chứa những âm tiết trống nghĩa, và hiểu ý nghĩa của chúng. Một khả năng tương tự như vậy cũng sẽ được hình thành ở những người Việt có trình độ ngôn ngữ ở mức trung bình, khi các từ đó được phiên theo âm Hán -Việt là đại vũ và hiện đại, còn ở những người biết tiếng Hán thì sự liên hội ba mặt: âm thanh – chữ viết – hiện thực giúp cho họ ngay từ đầu đã tri nhận được ý nghĩa của các từ đó. Như vậy, sự phân hóa trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới giữa những người sử dụng cùng một ngôn ngữ, suy cho cùng, là do sự xuất hiện của chiều kích thứ ba của tín hiệu ngôn ngữ. Trong các vùng ngoại lai, tín hiệu ngôn ngữ có sự thay đổi lớn về bản chất: từ tín hiệu hai mặt, chúng ta buộc phải nhìn nhận sự hiện diện của những tín hiệu ngôn ngữ ba mặt. Và như trên đã nói, năng lực ngôn ngữ gốc là cơ sở để một người sử dụng từ ngoại lai nắm bắt được ý nghĩa thực sự của nó. Song, như trên đã nói, cũng chính cái năng lực “vượt trội” so với những người sử dụng ngôn ngữ bình thường đó lại làm cho họ mất đi cái khả năng cảm nhận những nét đặc thù của quá trình bản ngữ hóa từ ngoại lai, để đến với cái bức tranh ngôn ngữ về thế giới thực sự mang màu sắc của bản ngữ.

4. Kết luận

Trên đây, chúng tôi mới chỉ đề cập một cách sơ lược tới một số khía cạnh của một vấn đề rộng lớn mà ngôn ngữ học cần phải quan tâm nghiên cứu: Sự thay đổi bức tranh ngôn ngữ về thế giới trong lĩnh vực vay mượn từ ngữ nước ngoài của các ngôn ngữ. Sự vay mượn các yếu tố ngoại lai không chỉ dừng lại ở việc thực hiện mục đích bù đắp những thiếu hụt về phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ này hay ngôn ngữ kia. Đó cũng không chỉ là sự bản ngữ hóa mặt ngữ âm của các yếu tố ngoại lai nhằm làm mất hoặc giảm đi tính dị biệt của chúng trong mối quan hệ với các yếu tố bản ngữ. Đó còn là cả một quá trình biến đổi ngữ nghĩa phức tạp trong chiến lược tiếp cận với các yếu tố ngoại lai của ngôn ngữ. Vì vậy, chúng ta cần phải có một cái nhìn sâu hơn về lĩnh vực này. Những gì đã được đề cập sơ lược trên đây cũng đã đủ khiến chúng ta phải nghĩ tới một bộ môn nghiên cứu gọi là Ngữ nghĩa học quan hệ liên ngôn ngữ. Đó là một lĩnh vực nghiên cứu bao quát toàn bộ các khía cạnh ngữ nghĩa của quá trình vay mượn lẫn nhau giữa các ngôn ngữ.

Mặt khác, quan hệ liên ngôn ngữ là một trong những đặc trưng mang tính phổ quát của quá trình phát triển các ngôn ngữ, tuy quy mô và ảnh hưởng của các mối quan hệ này đối với các ngôn ngữ có khác nhau. Mối quan hệ liên ngôn ngữ đã, đang và sẽ để lại những vùng ngoại lai trong các ngôn ngữ, làm phân hóa bức tranh ngôn ngữ về thế giới ở những người sử dụng cùng một ngôn ngữ. Sự phân hóa này không chỉ ảnh hưởng tới khả năng giao tiếp của những người thuộc cùng một cộng đồng ngôn ngữ mà còn ảnh hưởng tới việc học tập/giảng dạy ngôn ngữ nói chung và ngoại ngữ nói riêng. Trong quá trình học tiếng mẹ đẻ hoặc ngoại ngữ, năng lực tri nhận ý nghĩa của các yếu tố ngôn ngữ gốc có thể giúp cho người học nắm bắt được đầy đủ hơn bức tranh ngôn ngữ về thế giới nhờ khả năng liên hội ba mặt của các tín hiệu ngôn ngữ, song cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm lỗi trong khi sử dụng các yếu tố ngoại lai, do không nắm bắt được sự thay đổi của bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua quan hệ liên ngôn ngữ. Một học viên Trung Quốc chẳng hạn, khi học một từ Hán-Việt như địa phương có thể nghĩ rằng đây là một từ tương đương với từ dìfēng trong tiếng Trung, trong khi từ này trong tiếng Việt có nghĩa hẹp hơn nhiều so với tiếng Trung, vì trong tiếng Trung, từ này còn có nghĩa là nơi, nơi chốn. Một người Anh học tiếng Việt sẽ có thể sử dụng từ cao bồi hay bồi giống như từ cowboy hay boy trong tiếng Anh trong khi ở tiếng Việt chúng có ý nghĩa rất hẹp. Vì vậy, Ngữ nghĩa học quan hệ liên ngôn ngữ chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho thực tiễn giảng dạy và học tập ngôn ngữ. Thêm vào đó, nó còn giúp tìm ra những giải pháp nhất quán để xử lí các yếu tố ngoại lai nhằm khắc phục tình trạng vi phạm hệ thống bản ngữ khi du nhập các yếu tố ngoại lai.
_____________________________________________________________

Tài liệu tham khảo

1. Cao Xuân Hạo (1998). Tiếng Việt-mấy vấn đề ngữ âm ngữ pháp ngữ nghĩa. NXB Giáo dục.
2. Đặng Đức Siêu (1995). Ngữ văn Hán Nôm. T. 1. NXB Giáo dục. Hà Nội.
3. Đỗ Hữu Châu (1999). Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. NXB Giáo dục.
4. Fromkin V., Rodman R. (1998). An Introduction to Language. Harcourt Brace College Publishers.
5. Huszcza Romuald (2002). Polysystemism and co-systemism in modern Korean – an internal vs. external perspective. [trong:] 2nd International Academic Conference Korea – Poland – Central Europe. Perspective Partnership in the Areas of Science, Culture, Art, Literature and Economics (vol.1), tr. 33-52. Poznan, 2002.
6. Jackendoff R. (1993). Patterns in the Mind. New York: Happer Collins.
7. Hoàng Thị Châu (2004). Phương ngữ học tiếng Việt. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
8. Kalisz Roman (1994). Teoretyczne podstawy jezykoznawstwa kognitywnego, [trong:] Henryk Kardel (biên tập). Podstawy gramatyki kognitywnej, tr. 65-76.
9. Lakoff George (1987). Women, fire and dangerous things. Chicago.
10. Lê Đình Tư (1986). Mức độ giao thoa liên ngôn ngữ ở cấp độ từ vựng-ngữ nghĩa. Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1986.
11. Lê Đình Tư (2005). Những vấn đề ngữ nghĩa học âm vị. Tạp chí Khoa học ngoại ngữ số 3/6-2005, tr. 3-15.
12. Lý Toàn Thắng (2005). Ngôn ngữ học tri nhận – Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội.
13. Lyons J.(1984). Semantyka T.1. Warszawa: PWN.
14. Nguyễn Ngọc San (2003). Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử. NXB ĐHSP. Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Hoài Nhân (2002). Từ vay mượn với sự phát triển vốn từ vựng của ngôn ngữ nói chung và tiếng Nga nói riêng. [trong:] Hội nghị khoa học nữ lần thứ 7. NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 10/2002, tr. 88-97.
16. Nguyễn Thiện Giáp (2002). Từ vựng học tiếng Việt. NXB Giáo dục.
17. Nguyễn Văn Thành (2003). Tiếng Việt hiện đại. NXB Khoa học xã hội.
18. Phan Văn Các (2002). Từ điển Hán-Việt. NXB TP Hồ Chí Minh.
19. Rock I. (1983). The Logic of Perception. Cambridge.
20. Thompson L. C. (1987). A Vietnamese Reference Grammar. University of Hawaii Press. Honolulu.
21. Ungerer F., Schmid H. J. (1996). An Introduction to Cognitive Linguistics. London: Longman.
22. A modern Chinese course (1984). Join publishing Co. Hongkong.

————————————————-

Posted in Ngôn ngữ học tri nhận | 2 Comments »