TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Archive for Tháng Ba, 2010

Tặng phẩm của ngôn ngữ: Thói “ăn” nếp “ở” của người Việt qua cách nói

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 30, 2010

Ngô Nguyên Dũng

Không biết có phải do hoàn cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xa xưa, mà người Á đông nói chung, người Việt nói riêng, đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải chỉ để sinh tồn, mà còn để hưởng thụ: Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho sướng miệng cái đã, mấy chuyện khác tính sau.

Ở đâu lúc nào, một mình hay nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi coi có cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay sau gì cũng phải kiếm cái gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya. Vì vậy, trong tiếng Việt có vô số động từ đôi đi chung với “ăn”. Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân tộc khác.

Nhưng “ăn” nhiều khi lại không có nghĩa là “ăn”, mới lạ!

Tụ họp đình đám, lễ lạt giỗ tết, người mình nói “ăn cưới”, “ăn tết”, “ăn giỗ”, “ăn cúng”, “ăn đám ma”, … Từ “ăn” trong những nhóm chữ này rõ ràng là hành động đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được. Giống như “ăn” trong “ăn khín”, “ăn chực”, cũng là “ăn”, nhưng hàm ý không mấy tốt, tới ăn không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại nhiếc móc sau lưng: “Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn khín mà không biết mắc cỡ!” Nhưng “ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực nằm chờ” lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề gì đó. Có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những nơi xa xôi có việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp; ăn để chực chờ tới lượt được vô hầu quan lớn.
Phong cách ăn uống, nói năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục, lễ giáo của người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái (vì thời xưa không được tới trường), được cha mẹ dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở”, coi như những chuẩn mực để xử thế và giao tiếp trong gia đình, họ hàng và ngoài xã hội. Nghĩ rộng, thấy bốn món “công, dung, ngôn, hạnh” được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây, người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và nghĩa bóng của cụm từ “học gói, học mở” trong thành ngữ này. Tự điển Việt ngữ có vài cách giải thích khác nhau, không biết thực hư ra sao?). Vậy, “ăn” khi đi chung với “nói” được hiểu là đối đãi, cư xử. Nhưng khi cặp kè với “nhậu”, tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn toàn khác: “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô đâm ra mất lòng.” Ở đây, không biết vì nỗi niềm trắc trở gì mà “ăn nhậu” cương quyết chia tay, không còn luyến tiếc chút dư vị nào của “ăn uống, nhậu nhẹt” nữa, để cải trang, đổi lớp thành “dính líu, dính dáng”. Lạ, nhưng không lớn!

Chuyện lớn chỉ thực sự xảy ra, khi “ăn”… lỡ chung chạ với “nằm”. Mẹ quát con gái: “Hả, cái gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm, lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!” Nhất định là phải có “ăn” vô đây thì “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và được dùng để ám chỉ những trường hợp chung đụng xác thịt không chính thức. Vợ chồng với nhau, không ai (hoặc không nên) nói “ăn nằm”, mà nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ: “Vợ chồng mình ăn ở với nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ lòng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết ăn nói sao đây với con cái?” Nghe thương xót biết mấy! Và, “ăn nói” trong tình huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây là lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình 1ớn một cách vô cùng khó hiểu.

Chuyển qua “ăn vụng”. Nghĩa đen ý nói “giải quyết cái đói một cách lén lút”: “Nhà tôi có tật ăn vụng ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm nguội.” Chuyện không sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo trẹo cảnh cáo: “Tôi nói cho anh biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi biết được, đừng có trách tôi ác!” Và, tới khi bạn gái trề môi nhún mỏ rỉ tai nhau: “Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép, bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đáng đời!”, thì chuyện đã… mọc trăng sao, đang tối thành sáng trưng; hành động “ăn vụng” trở mặt, chỉ còn độc nhất một nghĩa bóng: “Đã có gia đình, còn đi ngoại tình.”

Trực tiếp hay gián tiếp cùng nghĩa với “ăn”, trong tiếng Việt có “ăn xin”, “ăn mày”: “Xin” người khác để có miếng ăn, để sinh sống (chữ “mày” trong “ăn mày” ngụ ý gì, có dính dáng gì tới “mày ốc”, “mày ghẻ” hay không, người viết không rõ.) Không riêng gì ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, có cả làng sống bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con. “Ăn mày”, vì vậy, nghiễm nhiên trở thành cái nghề. Để rồi, từ “nghề” chuyển ra “nghiệp”, đâu mấy hồi. Sinh ra, vướng nghiệp “ăn mày”, cuộc đời hẳn nhiên rách, rách lắm. Đâu mấy ai nhờ đó mà “ăn nên làm ra”?

Ở Pháp, tin mạng có trang “Ăn mày văn chương”, nghe rất “ấn tượng”. Nhưng cá nhân tôi không thấu đáo hai chữ “ăn mày” ở đây hàm ý gì. Văn chương chữ nghĩa là tặng phẩm của ngôn ngữ dành cho tất cả chúng ta, nào phải sở hữu riêng ai để mình xin xỏ hay đem bố thí cho người khác!

Qua tới các động từ “ăn cắp”, “ăn trộm”, “ăn cướp” thì đột nhiên “ăn” không còn ý nghĩa là hành động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà: lấy của người khác làm của riêng.
Ca dao có câu:

Con ơi học lấy nghề cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

Thì ra, không phải chỉ có nghề “ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ, “thu nhập” ngang ngửa tới ba năm làm. Nghe bắt ham!
Dĩ nhiên, đã là nghề thì phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi mẫn sau khi tốt nghiệp học đường “ăn xin”, và có chiến thuật tiến thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “ăn trộm”. Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được… bảng vàng ghi tên. Tất cả mánh mung được “sư phụ” chỉ giáo cho “đệ tử”, và hẳn là… lén lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. Vì vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa lên tin mạng cho người viết… tiện việc tra cứu.

Trong văn chương, nữ sĩ Trúc Giang tự thú trong hồi ký “Tình yêu nuôi tôi lớn”, đã “ăn cắp thì giờ của con, của chồng để viết truyện, để làm thơ”. Động từ “ăn cắp” được chị biểu tượng hoá, sử dụng ẩn dụ rất khéo, đọc nghe ái ngại, không biết rồi chị có… bị sao không, có bị chồng con thưa ra toà phạt vạ hay tù tội gì không?

Trong khi “ăn cắp” và “ăn trộm” mang nghĩa lén lút, lặng lẽ, lấm lét lấy “cắp” và lấy “trộm” của người khác làm của riêng, thì “ăn cướp” là dùng võ lực lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm, súng đạn để tước đoạt cho bằng được.

Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
.

Khổ cho dân mình quá! Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có “108 anh hùng Lương Sơn Bạc”. Rủi thay, chỉ sướng… ảo, vì các vị anh hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng “vừa bị tuyên án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta làm việc.” Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh, rằng anh mắc phải “hội chứng Robin Hood”. Dù vậy luật sư vẫn không cứu vãn cho anh được trắng án. Ấy, ngoài “hội chứng ăn cắp”, còn có thêm “hội chứng ăn cướp” nữa kia! Biết đâu chừng, dám có cả “hội chứng ăn chực, ăn khín” nữa, mà khoa tâm lý học chưa tìm ra!
Đàn bà, con gái khi không có gì ăn, tối tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên nghiệp: mang danh “gái ăn sương”, không được ai thương hại, mà còn bêu rếu. Thời đại bây giờ, đàn bà, con gái không còn độc quyền hành nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu niên nam nữ cũng nhảy vô cạnh tranh. Còn động từ “ăn đêm”, tôi nghĩ, không hẳn đồng nghĩa với “ăn sương”, mà gần với “ăn khuya” hơn. Ngoài ra, còn được dùng để chỉ “hành động đi kiếm mồi trong đêm tối” của muông thú, như trong bài đồng dao ru con:

Con cò mày đi ăn đêm,
đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…

Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn, người miền Bắc nói “bắt nạt”, người miền Nam dùng động từ “ăn hiếp”, thường nghe trẻ con hài tội lẫn nhau: “Thưa cô, trò A ăn hiếp con, mượn con cục gôm, con đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!”

Khi có kẻ thừa cơ “chôm” của, hoặc đợi anh hùng hảo hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người Việt mình nói “ăn hôi”. “Ăn tàn” trong thành ngữ “theo đóm, ăn tàn” cũng có nghĩa tương tự như vậy: “Cái thằng đó là hạng người ‘theo đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe hèn lắm. Còn “ăn mót” nghe lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng có gì đáng hãnh diện, vậy mà tục ngữ có câu:

Muốn ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót.
Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà bắt cua.

Câu đầu, tôi không biết phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời nên biết chọn ý trung nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng?

Còn “ăn” trong “ăn quịt” nguyên thuỷ hẳn có nguồn gốc “ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền”. Về sau được dùng chung cho mọi trường hợp, khi tiền bạc không được thanh toán sòng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ nhau: “Chị coi chừng cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền rồi ăn quịt.” Nhưng khi “ăn” cặp kè với “vạ”, ngộ nghĩnh thay, “ăn” bay mất nghĩa gốc. “Ăn vạ” là tiểu xảo thường thấy ở tâm lý lì lợm của trẻ con và… cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền: “Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn ra ăn vạ, khóc lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!” Hoặc: “Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay vì được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.” “Ăn” trong trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý “cầu thắng, để đạt được mục đích” chăng?

Tương tự như trong chuyện bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi: “Bữa nay ăn thua sao rồi?” Không chạy đi đâu, “ăn” ở đây đồng nghĩa với “thắng”. Giống như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới lúc thắng thua minh bạch mới thôi”: “Tư Lùn là tay anh chị thuộc hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao ta!” Hoặc trong “ăn gian”: Gian lận để thắng. Nhưng nhiều khi còn được sử dụng thay cho “gian dối”: “Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, cao có 1 thước 55 thôi mà dám nói cao tới 1 thước 72. Thiệt, xạo hết ý!” Chuyện nhỏ. Còn có người “ăn gian” trí thức nữa kia! Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau: “Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là tiến sĩ, nghe có tức không?”

Có ai muốn dằn mặt, cảnh cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho “ăn” là đủ: “Nói cho mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức thì!” Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như “tát”, “đấm”, “đá”, v.v… thì “ăn” có nghĩa “nhận lãnh, lãnh lấy hậu quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông một cái nhẹ hều, đã bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn gì cũng thích, chỉ không hảo mấy món “ăn đòn”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”, v.v… mà thôi.

Gặp trường hợp bà mai đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ coi mặt, thòng theo câu nói: “Tại con nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, chú à!”; hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà phấn son lên sân khấu, ăn đèn dễ sợ!”; từ “ăn” mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp” với kỹ thuật chụp ảnh, trong “ăn ảnh”, cũng như với ánh đèn sân khấu, trong “ăn đèn”.

Nghĩa cũng gần như vậy, người Việt nói “ăn nhịp”, thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lý, không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà, dặn dò thằng em: “Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật cho ăn khớp, không thôi bả đánh cho nát đít!”… Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi đôi với tiếng… nước ngoài, Việt ngữ có động từ “ăn rơ”, với “rơ” được phiên âm từ jeu (trò chơi, cuộc chơi) của tiếng Pháp mà ra. “Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ với nhau hết sức.” Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học.

Phần trên có nhắc tới động từ kép “ăn ở”, ngoài ý nghĩa “đời sống vợ chồng” còn hàm ý chỉ “cách xử thế, đối đãi” với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột than thở cùng chồng: “Lúc nào vợ chồng mình cũng ăn ở hiền lành, phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”, nhưng khi người mẹ xẳng giọng với anh con trai đã ngoài năm mươi mà vẫn còn độc thân: “Mầy cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó nó lấy mầy làm chồng.” Hoặc khi cô con gái lắc đầu nguây nguẩy: “Con không ưng anh ấy đâu, người gì mà ăn ở dơ dáy như heo!”, nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành “thói ăn nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì tới người khác.

Thành ngữ Việt nam có vô số câu liên quan tới “ăn”. “Ăn không”, tiếng miền Nam, cùng nghĩa với “ăn vã”, tiếng miền Bắc, ý nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo cơm, cháo, v.v… Khi đi chung với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi rồi”, có nghĩa “rỗi việc”, nhưng không mấy tốt, gần như “vô tích sự”: “Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!”

“Ăn xổi”, với trạng từ “xổi” (“qua loa, tàm tạm”, thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng Bắc, đi chung với “ở thì” (“ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn”), thành “ăn xổi ở thì”: nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi dụng, bạc tình bạc nghĩa. Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả buông lời ong bướm (ngôn ngữ hiện đại nói là “thả dê”) đòi… ăn nằm, nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác:

Phải điều ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!

Rõ là nàng Kiều được Vương ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo thì thôi!
Khi đứng trơ trọi một mình, “ở” có nhiều nghĩa, và không phải chỉ giữ vai trò động từ: “Anh ở lại đây với em tối nay nghe! Ở một mình, em sợ ma quá hà!”, mà cũng có thể là giới từ chỉ định xuất xứ, vị trí: “Cô ấy ở quê mới lên, nên ưa đi chân không ở trong nhà.”

Khi “ở” kết bạn với “đậu”, có nghĩa “sống nhờ, sống cậy” vào người khác. Với “đợ”, hoặc với “người” thành “người ở”: “tới sống chung để giúp việc nhà có lãnh lương”. “Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con, chờ kiếm ra chỗ ở đợ.” Với “vậy”, theo tôi, có hai nghĩa: “ở vá”: độc thân, không lập gia đình” (có tự điển ghi thêm, “vá” cũng còn có nghĩa như “goá”). Hoặc, “ở goá: sau khi vợ hoặc chồng chết, không lấy người nào khác.” V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những trường hợp nêu trên, “ở” có nghĩa “hoàn cảnh gia đình”.

Ở trên có nhắc tới “ăn không”, với “ở” ta có “ở không”: rảnh rỗi, không làm gì cả. “Nhân lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy giấy viết tí toáy làm thơ tình gởi đăng nhật trình.” Tới đây, ta có thêm “ở cữ”: hoàn cảnh, thời gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ.

Thời trước, thi sĩ trào phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: “Sư cô ở cữ”.

… Nhưng rồi một sáng mùa thu,
Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa …

“Ăn” với “ở”, tóm lại, thường đi đôi với nhau như hình với bóng, như đũa có đôi, như môi răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người viết xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao “hậu hiện đại” tự biên tự chế:

Ăn có đũa, ở có đôi.
Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.

______________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ và văn hóa, Ngữ nghĩa từ vựng học | Thẻ: , , , , | 2 Comments »

ĐỪNG TÙY TIỆN ĐỔI MỚI TIẾNG VIỆT!

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 30, 2010

Lê Đình Tư
(Bài đã đăng trong Tạp chí Tri thức trẻ)

Việc bổ sung từ ngữ cho tiếng Việt bằng cách vay mượn từ ngữ tiếng nước ngoài đương nhiên là một việc bình thường như đối với mọi ngôn ngữ khác, khi sự vay mượn đó là cần thiết, nghĩa là khi trong tiếng Việt chưa có các từ ngữ để biểu thị những khái niệm mới. Chính vì vậy, quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ khác thường để lại những dấu ấn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Đó là sự hiện diện của lớp từ vựng vay mượn hay còn gọi là từ vựng ngoại lai. Quá trình vay mượn từ ngữ của các thứ tiếng khác trong tiếng Việt đã diễn ra ngay từ thời kì xa xưa, trong giai đoạn nó đang hình thành, rồi về sau nó tiếp tục được bổ sung thêm vốn từ ngữ vay mượn của tiếng Hán và các thứ tiếng châu Âu hoặc châu Á khác. Đó là do vị trí địa-chính trị đặc biệt của Việt Nam, một trong số ít những quốc gia trên thế giới đã trở thành nơi hội tụ, gặp gỡ của nhiều tinh thần văn hóa-chính trị khác nhau, trong đó sự gặp gỡ của tiếng Việt với các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau là một trong những yếu tố gây tác động mạnh mẽ nhất đến đời sống xã hội của cộng đồng người Việt. Trong hệ thống tiếng Việt, chúng ta có thể quan sát thấy những ảnh hưởng của một loạt ngôn ngữ như: tiếng Trung (tiếng Hán), tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Hàn, tiếng Khơme, tiếng Nhật, tiếng Thái… Dấu tích cụ thể của những ảnh hưởng đó là một tỉ lệ lớn các từ ngoại lai mượn của các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau trong tiếng Việt. Nhìn bề ngoài và nếu chỉ xét riêng về tỉ lệ các từ ngoại lai, người ta có thể coi tiếng Việt bản địa chỉ là dấu tích còn lại của một thứ tiếng Việt xa xưa, bởi vì tổng cộng có tới khoảng 60-80% đơn vị từ vựng trong thứ tiếng này là từ vay mượn của các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, tình hình thực tế không cho phép chúng ta khẳng định điều đó, vì đa số các từ ngoại lai trong tiếng Việt không còn mang những nét đặc trưng của các ngôn ngữ gốc mà chủ yếu mang những nét đặc trưng (ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp) của tiếng Việt. Đó là do chúng đã được Việt hóa hóa cao độ để hoàn toàn phù hợp với hệ thống của tiếng Việt, khiến cho người Việt trong nhiều trường hợp không nhận ra tính chất ngoại lai của chúng. Ngày nay, có lẽ ít người Việt nào lại nghĩ là từ (cái) đầu, (căn) buồng là từ vay mượn của tiếng Hán hay (nhà) ga, (cái) phanh là từ mượn của tiếng Pháp.

Việt hóa các yếu tố ngoại lai diễn ra trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vị và ngữ pháp. Về mặt ngữ âm chẳng hạn, sự Việt hóa đã tạo cho các yếu tố ngoại lai diện mạo của những đơn vị từ vựng tiếng Việt, khiến cho sự tồn tại của chúng trong tiếng Việt không phá vỡ tính hệ thống của nó, nghĩa là làm cho người Việt bình thường khi nghe từ ngoại lai không cảm thấy “chướng tai” và tự mình có thể nói hay đọc được các từ ngữ đó mà không cảm thấy “ngượng giọng”. Một cụm từ tiếng Anh không được Việt hóa như live show sẽ phá vỡ hệ thống ngữ âm của tiếng Việt và gây khó khăn cho đại đa số người Việt trong khi nghe cũng như khi nói.

Trên phương diện ngữ pháp, việc vay mượn rất ít khi xảy ra. Sỡ dĩ như vậy là vì ngữ pháp chính là cái phần quan trọng nhất quyết định ngôn ngữ này hay ngôn ngữ kia là một ngôn ngữ độc lập hay chỉ là một biến thể địa phương của một ngôn ngữ nào đó. Chẳng hạn, nếu xét về phương diện phát âm và từ vựng thì giữa các phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ có sự khác biệt khá lớn, nhưng do không có sự khác biệt đáng kể nào về mặt ngữ pháp giữa các phương ngữ đó nên người Việt sống ở các vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam vẫn hiểu được nhau. Giả dụ, với sự khác biệt về ngữ âm và từ vựng của mình, nếu tiếng Trung Bộ có cấu trúc ngữ pháp khác với tiếng Việt phổ thông mà giống với cấu trúc của tiếng Anh thì tiếng nói đó chẳng người Việt nào ở những vùng khác hiểu được. Ví dụ: Nếu người Trung Bộ nói: “Rứa chi mần bọ?” thì người vùng khác sẽ nghĩ có lẽ đây là một thứ tiếng nước ngoài. Chính nhờ cái hệ thống ngữ pháp chung cho tất cả các tiếng địa phương mà người Việt ở đâu cũng hiểu được nhau, và do đó, tiếng nói của các cư dân địa phương khác nhau chỉ được coi là phương ngữ của tiếng Việt chứ không phải là những ngôn ngữ độc lập. Như vậy, việc đưa các cấu trúc ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó vào tiếng Việt để “đổi mới” tiếng Việt sẽ có hậu quả tai hại hơn nhiều so với việc vay mượn từ ngữ, bởi vì điều đó có thể dẫn đến nguy cơ biến tiếng Việt thành một phương ngữ của một ngôn ngữ ngữ khác, hoặc chí ít cũng làm cho người Việt không hiểu được nhau hoặc hiểu sai nhau. Với hơn 60% từ ngữ vay mượn của tiếng Hán (tiếng Trung), nếu tiếng Việt “nhập khẩu” thêm các cấu trúc ngữ pháp (cấu trúc ngược) của tiếng Hán thì chắc chắn ngày nay tiếng Việt sẽ được coi là một phương ngữ của tiếng Hán. Cho nên, các thế cha ông người Việt xưa kia thực sự là những nhà thông thái, khi sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc vẫn bảo vệ được tiếng Việt khỏi sự diệt vong.

Đương nhiên, đôi khi sự vay mượn cấu trúc tiếng nước ngoài vẫn xảy ra trong tiếng Việt. Đó là sự vay mượn các cấu trúc theo kiểu mô phỏng, nhưng đó thường là những cấu trúc có nhiều điểm giống với cấu trúc của tiếng Việt. Dẫu vậy, ngay cả trong những trường hợp này, người ta vẫn phải Việt hóa các cấu trúc cho phù hợp với hệ thống ngữ pháp tiếng Việt. Chẳng hạn, tuy mô phỏng cấu trúc thành ngữ của tiếng Anh là “To be armed to the teeth”, nhưng tiếng Việt không nói hoàn toàn theo ngữ pháp tiếng Anh là “được vũ trang đến những cái răng” mà nói là “được vũ trang đến tận răng”, Chính việc sử dụng cái từ “tận” rất Việt và từ “răng” mang sẵn ý nghĩa tập hợp (= những cái răng) đã khiến chúng ta cảm thấy thành ngữ này không “Tây” một chút nào. Vì vậy, có thể nói rằng, nguyên tắc Việt hóa các yếu tố vay mượn của tiếng nước ngoài phải được tuân thủ trên tất cả các cấp độ của tiếng Việt.

Như tôi đã viết (xem thêm Tri thức trẻ, số 234-246), cấu trúc “X đến từ Y.” vi phạm trật tự bình thường của cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Người Việt coi trật tự của các từ như vậy là trật tự nghịch. Nếu kết hợp các từ theo một trật tự nghịch thì người Việt hoặc là không hiểu hoặc là có thể hiểu theo nghĩa khác, hay ít nhất cũng cảm thấy chướng tai. Chẳng hạn, nếu một người Việt nói thế này: “Tôi vừa mới đến từ còng” thì đa số người nghe sẽ hiểu là: “Tôi vừa mới đến Từ Còng”, chứ ít ai hiểu là: “Tôi vừa mới từ Còng đến.”. Đó là do áp lực của cấu trúc thuận trong tiếng Việt. Hơn nữa, vì động từ đến vốn là cách nói rút gọn của cụm động từ đi đến, trong đó đến là từ chỉ phương hướng hay điểm đích của động từ chuyển động đi, nên không bao giờ từ và đến đi liền với nhau. Vì vậy, việc “cách tân” hay “hiện đại hóa” tiếng Việt bằng cách “nhập khẩu” cấu trúc nghịch của tiếng Anh cộng với sự kết hợp những yếu tố không thể kết hợp trực tiếp với nhau sẽ phá vỡ hệ thống ngữ pháp của tiếng Việt.

Việc sử dụng một yếu tố nào đó của tiếng Việt đương nhiên phải dựa vào ý nghĩa thực sự của yếu tố đó trong tiếng Việt. Không thể căn cứ vào ý nghĩa của một từ tương đương trong một ngôn ngữ khác để biện mình cho cách dịch của một cá nhân nào đó. Động từ đến trong tiếng Việt luôn luôn bao hàm ý nghĩa “di chuyển”, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một số cá nhân biết tiếng Anh, do đó không thể căn cứ vào ý nghĩa của từ to come trong tiếng Anh để giải thích rằng “Anh ta đến từ Việt Nam” có ý nghĩa giống như “Anh ta là người Việt Nam” hay “Anh ta quê ở Việt Nam”, nghĩa là phủ nhận ý nghĩa “di chuyển” của động từ đến của tiếng Việt. Người Việt bình thường không cần biết động từ to come trong tiếng Anh có ý nghĩa gì. Cho nên, việc căn cứ vào ý nghĩa của động từ này trong tiếng Anh để gây áp lực đối với cách hiểu ý nghĩa của từ đến trong tiếng Việt là một việc làm phi lí mà chỉ có những người quá tôn sùng tiếng nước ngoài mới có thể nghĩ tới. Chỉ có thể hiểu được sự phi lí đó, nếu chúng ta tự đặt câu hỏi: Liệu chúng ta có thể “hiện đại hóa” tiếng Anh bằng cách nói: “He from Vietnam comes.” (= Anh ta từ Việt Nam đến) để thay cho cách nói cũ kĩ: “He comes from Vietnam.” (= Anh ta đến từ Việt Nam) được không?

Đương nhiên, ở đây còn phải nghĩ tới một vấn đề lớn hơn: Ai có thẩm quyền quyết định việc “đổi mới” hay “hiện đại hóa” tiếng Việt? Nếu mỗi cá nhân biết một ngoại ngữ nào đó chốc chốc lại “nhập khẩu” một cấu trúc của tiếng nước ngoài thì chẳng bao lâu nữa tiếng Việt sẽ biến mất giống như hàng trăm ngôn ngữ khác trên thế.

Các thế cha ông người Việt xưa kia đã bảo vệ thành công tiếng Việt khỏi sự diệt vong. Các thế hệ những dịch giả tên tuổi đã thực sự lao tâm khổ tứ để các câu văn dịch của họ hoàn toàn không chút pha tạp, mặc dù họ đã tạo ra được rất nhiều cấu trúc mới cho tiếng Việt, làm cho tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ hiện đại như ngày nay. Họ không mắc sai lầm vì tránh được sự phụ thuộc vào cấu trúc tiếng nước ngoài. Họ đã làm chủ được cái “thần” của tiếng Việt và ngoại ngữ. Còn ngày nay, chúng ta đang bê nguyên xi từ ngữ và cấu trúc tiếng nước ngoài vào tiếng mẹ đẻ. Điều đó không chỉ nói lên thái độ làm việc mà còn nói lên sự thiếu hiểu biết về cái công cụ giao tiếp quan trọng nhất của người Việt Nam là tiếng mẹ đẻ. Với quan niệm “hiện đại hóa” ngôn ngữ như hiện nay, liệu một vài chục năm nữa, các thế hệ sau có còn nói: “Tôi có hai người bạn.” hoặc “Tôi chỉ có hai người bạn”, hay là sẽ nói: “Tôi có bạn hai người.” hoặc: “Tôi có hai người bạn chỉ.”?

_________________________________________________________

Posted in Chuẩn mực ngôn ngữ | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Nguyễn Tài Cẩn, nhà học giả “bất yếm, bất quyện”

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 28, 2010

Hàm Châu

– Ông là người Việt đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ ngôn ngữ học tại Nga, và là nhà ngôn ngữ học đầu tiên được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Sinh năm Bính Dần – 1926, GS Nguyễn Tài Cẩn hiện đang ở tuổi 84. Quê ở Thanh Chương, Nghệ An, ngay từ thời trẻ, ông đã gắn bó với nghề dạy học.

Năm 2000, ông được Nhà nước ta tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Vào dịp ấy, Đại học Quốc gia Hà Nội tặng ông một chiếc đĩa sứ lớn phủ men trắng, trên mặt có in bốn chữ Hán viết tay bằng men lam: Bất yếm, bất quyện (rút ngắn lời Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” – học không biết chán, dạy người không biết mỏi). Thật quá đúng tính cách thầy Cẩn!

Sau khi về hưu, ông sang sống tại Moskva, LB Nga, cùng vợ, nữ giáo sư người Nga Nona Stankyevich. Cư trú trên đất Nga để được các con chăm sóc, nhưng cả hai ông bà vẫn mải mê nghiên cứu tiếng Việt như những năm nào còn làm việc tại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội.

Xuân Bính Tuất – 2006, gặp lại ông tại Hà Nội, tôi được ông tặng cuốn sách dày 645 trang khổ nhỡ, cuốn Tư liệu Truyện Kiều: từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu. Và rồi, sau đó, qua thư điện tử từ Moskva, tôi liên tiếp nhận được nhiều bài nghiên cứu mới của ông, khám phá dấu vết kỵ huý thời Lê – Trịnh trong các bản Kiều Nôm cổ, chứng tỏ Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều sớm hơn thời điểm mà nhiều nhà “Kiều học” trước đây vẫn tưởng.

Đối với mình – ông tâm sự – tìm tòi cái mới là lẽ sống, là niềm vui suốt đời.

Tết Kỷ Sửu – 2009, trong những ngày ông trở về Hà Nội, tôi lại có dịp gặp ông và được ông tặng mấy cuốn sách mới in.

Xuân Canh Dần – 2010, qua Internet, tôi nhận được bản thảo một công trình nghiên cứu mới của ông, khám phá sự ra đời của chữ Nôm qua bản dịch kinh Phật vào thế kỷ thứ 10, đời nhà Lý, vài trăm năm trước các truyền thuyết về Hàn Thuyên, Chu Văn An…

Đổi mới nhận thức của giới Việt ngữ học

Trên số báo Lao Động ngày 8/9/2000, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Cao Xuân Hạo đã nhận xét về cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ) của Nguyễn Tài Cẩn (viết xong năm 1960 tại Leningrad, được xuất bản tại Hà Nội năm 1975):

“Cách đây 40 năm, bậc đàn anh của Việt ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đem từ Liên Xô về lý thuyết âm tiết – hình vị. một lý thuyết có thể giải quyết những vấn đề mà một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt đặt ra cho ngôn ngữ học hiện đại, từ đó vạch ra con đường khắc phục chủ nghĩa “dĩ Âu vi trung” (coi châu Âu là trung tâm – europeocentrism). Tiếc rằng hồi đó không ai hiểu ông.”

Phải nói rằng, cho đến những năm 1960 – và đến cả hôm nay – không ít người viết sách ngữ pháp tiếng Việt không xuất phát từ văn, thơ và câu nói tự nhiên của người Việt để phân tích, khái quát, tìm ra quy tắc ngữ pháp. Trái lại, họ đơn giản đem bộ khung ngữ pháp tiếng nước ngoài – chủ yếu là tiếng các nước châu Âu – “đóng đinh bắt vít” vào tiếng Việt, rồi “phán” rằng câu nói hồn nhiên của các em học sinh “chiếc lá này xanh” cần phải chữa lại thành “chiếc lá này là xanh” cho đúng với cách viết “cette feuille est verte” trong tiếng Pháp, hoặc “this leaf is green” trong tiếng Anh!

Cuốn sách đầu tiên của Nguyễn Tài Cẩn mở ra hướng mới cho việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, khác với các thứ tiếng châu Âu.

Soi rọi ngọn nguồn của cách đọc Hán – Việt

Một công trình khác của Nguyễn Tài Cẩn gây tiếng vang trong giới ngôn ngữ học Việt Nam và nước ngoài là cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt in năm 1979.

Ngày nay, một học sinh trung học đọc bài thơ Nam quốc sơn hà (tương truyền là của Lý Thường Kiệt) vẫn có thể hiểu ý nghĩa dù chưa được học chữ Hán. Giả sử bài thơ ấy được đọc theo âm phổ thông của tiếng Trung Quốc, thì chắc chắn em học sinh kia chẳng hiểu tý gì! Công lao to lớn của cách đọc Hán – Việt chính là chỗ đó.
Nhờ cách đọc này, tiếng Việt có thêm một lớp từ mà mức độ phong phú coi như vô tận, bởi vì trong mấy thập niên gần đây, cũng như từ nay về sau, khi cần thiết, chúng ta vẫn có thể mượn thêm những từ Hán mới mà không phá vỡ cấu trúc nội tại của tiếng Việt.
GS Hoàng Xuân Hãn đã làm phong phú thêm tiếng Việt bằng cách mượn rất nhiều thuật ngữ khoa học trong tiếng Hán nhưng đọc theo cách đọc Hán – Việt: định lý, định luật, đẳng thức, phương trình, nguyên tử, lượng tử…

Nhưng hai câu hỏi lớn được đặt ra: Cách đọc Hán – Việt xuất hiện từ bao giờ? Và đã biến đổi ra sao qua bao thế kỷ? Để trả lời cặn kẽ hai câu hỏi ấy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải viết cả một cuốn sách dày 400 trang khổ nhỡ.

Không chỉ các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và Trung Quốc, mà cả giới Đông phương học quốc tế cũng chú ý đến cách đọc Hán – Việt, bởi vì muốn nghiên cứu tiếng Hán trung đại, nghiên cứu cách đọc chữ Hán ở Nhật Bản theo Go-On (Ngô âm) hay theo Kan-On (Hán âm) hay cách đọc chữ Hán ở Triều Tiên theo cách đọc Hán – Triều , đều rất cần sự so sánh, viện dẫn cách đọc Hán – Việt, từ đó lắm khi có thể rút ra những kiến giải bất ngờ, lý thú.

Cách đọc Hán – Việt hiện nay chính là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời nhà Đường ở kinh đô Trường An, từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán được dạy lần cuối cùng ở Giao Châu trước khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ 10.
Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20, cách đọc Hán – Việt phát triển theo quỹ đạo phát triển của tiếng Việt, không còn lệ thuộc vào những gì biến đổi trong ngữ âm tiếng Hán ở bên kia biên giới. Lớp từ Hán – Việt ngày càng lọt sâu vào kho từ vựng tiếng Việt, những nét xa lạ về mặt ngữ âm mất dần, và rồi trở thành một bộ phận khăng khít, chứ không phải được “cấy ghép” vào hệ thống Việt ngữ.

Trên đây là những kết luận khái quát. Tất nhiên, trước khi đi đến những kết luận ấy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải bỏ ra biết bao công sức. Chẳng hạn, nói rằng cách đọc Hán – Việt hiện nay chính là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời nhà Đường, vậy thì vào đời nhà Đường, người Trung Quốc ở kinh đô Trường An đọc chữ Hán ra sao? Tiếng Hán thời ấy có những phụ âm, những vần và những thanh điệu nào? Nếu dùng lối phiên âm quốc tế hiện nay để ghi lại, thì cụ thể ra sao?

Và nữa: Cách đọc chữ Hán của người Việt hồi thế kỷ 8 – 9 ra sao? Gồm những phụ âm, những vần và những thanh điệu nào? Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20, cách đọc Hán – Việt đã thay đổi ra sao? Để trả lời những câu hỏi đó, phải sử dụng những phương pháp hiện đại của ngữ âm học lịch sử.

Đọc hàng vạn trang sách của các nhà Đông phương học bằng các thứ chữ Hán, Nôm, Quốc ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật, v.v. về vấn đề liên quan, đưa ra thêm những luận cứ mới, những kiến giải riêng, Nguyễn Tài Cẩn đã soi rọi đến tận ngọn nguồn cách đọc Hán – Việt, một cách đọc giúp người Việt Nam dễ dàng tiếp nhận tinh hoa văn hoá Hán – nền văn hoá lớn nhất phương Đông – mà không bị “Hán hoá”.

GS A. G. Haudricourt, một bậc thầy trong ngành ngôn ngữ học thế giới, đánh giá cao công trình của Nguyễn Tài Cẩn, và giao cho người học trò của mình là nữ tiến sĩ Barbara Niedeer dịch ra tiếng Pháp, để phổ biến rộng hơn trên thế giới.

Nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt và Truyện Kiều

Cuốn Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn in năm 1995 cũng là một công trình nghiên cứu 350 trang trình bày một cách sáng tỏ lai nguyên của hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần đệm w và hệ thống thanh điệu tiếng Việt từ 4.000 năm trước cho đến tận ngày nay.
Để viết cuốn sách này, Nguyễn Tài Cẩn đã phải tham khảo hàng trăm công trình nghiên cứu tiếng Việt, tiếng Mường và những ngôn ngữ bà con gần xa như Nguồn, Pọng, Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Arem, Thà Vựng, Pakatan, Phon Soung, Khạ Phọng… Riêng tiếng Mường, thì cũng không phải đồng nhất, mà theo sơ bộ điều tra, có tới 29 thổ ngữ, xếp thành 9 nhóm, ở rải rác tại các tỉnh Bắc bộ và bắc Trung bộ!

Ngoài ba công trình của ông mà giới ngôn ngữ học nước ta đề nghị Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn còn công bố nhiều bài báo và sách chuyên khảo có giá trị cao như các cuốn: Một số vấn đề về chữ Nôm (1982), Ảnh hưởng Hán văn Lý – Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn (1998), Tư liệu Truyện Kiều: từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu (2004)…

Tác giả đã khảo sát cặn kẽ, chi li 9 bản Kiều ở thế kỷ 19, gồm 7 bản Nôm là Duy Minh Thị (1872, 1879), Liễu Văn Đường (1871), Quan Văn Đường (1879), Thịnh Mỹ Đường (1879), Lâm Noạ Phu (1870), Kiều Oánh Mậu (biên tập cuối thế kỷ 19, xuất bản năm 1902); 1 bản nửa Nôm nửa Quốc ngữ của Abel des Michels (1884); và 1 bản Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký (1875).
Công phu bỏ ra thật không kể xiết! Điều tra về 9 bản Kiều cổ tức là phải khảo sát 29.000 câu thơ với khoảng 205.000 chữ, hầu hết là chữ Nôm viết tay, in mộc bản hàng trăm năm trước, nay chữ mờ, khó đọc, lại thêm có nhiều tự dạng Nôm cổ khó “giải mã”.

Khảo sát kỹ lưỡng một số văn bản Kiều Nôm cổ, Nguyễn Tài Cẩn phát hiện vết tích kỵ huý thời Lê – Trịnh. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều vào thời kỳ Tây Sơn, trong “mười năm gió bụi”, chứ không phải sau khi đi sứ Trung Quốc trở về.

GS Nguyễn Tài Cẩn thường được mời đến giảng dạy tại nhiều trường đại học lớn ở Nga, Pháp, Mỹ, Nhật Bản…

_________________________________________________________

Posted in Chân dung các nhà ngôn ngữ học | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGÔN NGỮ HỌC

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 27, 2010

LÊ Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

Ngôn ngữ có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội loài người nên từ lâu nó đã được con người quan tâm nghiên cứu. Ngay từ thời xa xưa, vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ đã được đặt ra.
Ở Ấn Độ, vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên (CN), người ta đã tiến hành miêu tả các quá trình phát âm những âm riêng biệt và lập được hệ thống phân loại các âm đó khá chuẩn xác. Phương pháp miêu tả của các nhà nghiên cứu ngữ âm Ấn Độ dựa trên sự quan sát bằng mắt và cảm nhận bằng tay các cơ quan phát âm trong quá trình phát âm. Từ những quan sát trực tiếp đó, dần dần người ta đã tiến tới nghiên cứu về mặt lý thuyết các vấn đề ngôn ngữ. Đỉnh cao của giai đoạn nghiên cứu ngôn ngữ ở Ấn Độ thời cổ là công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Phạn của Panini, xuất bản vào khoảng thế kỷ IV-V trước CN. Tiếp theo sau Panini, các nhà ngữ pháp Ấn Độ đã phát triển các lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ về mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, trong đó có nhiều quan điểm cho đến nay vẫn còn được các nhà ngôn ngữ học đánh giá rất cao.
Cũng vào khoảng thời gian đó, ở những trung tâm văn hoá khác của thế giới, việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng đã được khai triển. ở Trung Quốc, một số triết gia Cổ đại đã bàn về những vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ, như vấn đề quan hệ giữa tên gọi và hiện thực, vấn đề câu, vấn đề chữ Hán hay các vấn đề ngữ âm (ví dụ như Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử, Mặc tử, Công Tôn Long, Lý Đăng, Dương Hùng). ở Hi Lạp Cổ đại, những triết gia có tên tuổi như Đêmôkrit, Hêraklit, Platon, Arixtốt, v.v… cũng đã bàn tới mối quan hệ giữa tên gọi của các sự vật hay hiện tượng với bản thân các sự vật hay hiện tượng đó và khả năng áp dụng các nguyên tắc lôgích học để giải thích đặc điểm của các hình thức ngữ pháp. Đối với ngôn ngữ học châu Âu, cách tiếp cận này đã có ảnh hưởng rất lớn.
Nhưng nhìn chung, trong suốt giai đoạn này, ngôn ngữ được nghiên cứu không phải là từ nó và cho bản thân nó. Người ta đến với ngôn ngữ từ những góc độ hoàn toàn không phải là ngôn ngữ học mà là từ những góc độ của những lĩnh vực nghiên cứu khác như triết học, tôn giáo, thi pháp hay lôgích học.
Bước sang thời kỳ Trung Cổ, việc nghiên cứu ngôn ngữ ngày càng được nhiều người quan tâm hơn, đặc biệt là ở châu Âu và các nước Ả Rập. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các vấn đề ngữ pháp của ngôn ngữ. Dưới ảnh hưởng của truyền thống nghiên cứu ngữ pháp của Hi Lạp từ những thế kỷ trước, người châu Âu đã tiến hành nghiên cứu ngữ pháp tiếng Latinh. Nhiều vấn đề ngữ pháp đã được mở rộng, như vấn đề phân chia từ loại, các nguyên tắc cấu tạo từ hay các nguyên tắc kết hợp từ. Song suy luận lôgích vẫn là phương pháp chủ đạo trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ. Tại các quốc gia Ả Rập, do phải bảo vệ ngôn ngữ kinh Coran, một thứ ngôn ngữ thiêng liêng mà không một ai có thể chuyển dịch hoặc thay đổi được, nên người ta phải tiến hành mô tả thứ ngôn ngữ đó. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã lập ra những trường phái ngữ pháp để đào tạo các thế hệ trẻ làm nhiệm vụ nghiên cứu và giữ gìn sự tinh khiết của ngôn ngữ Coran. Tuy tập trung vào những vấn đề ngữ pháp, song họ cũng đã nghiên cứu một số mặt khác của ngôn ngữ, như mặt sinh học và âm học của các âm lời nói, hay tập hợp các từ thành từ điển. Bên cạnh các nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Ả Rập còn có cả những người Do Thái, mà ngôn ngữ của họ – tiếng Hebrai (tiếng Do Thái cổ) – có quan hệ thân thuộc với tiếng Ả Rập. Người Do Thái đã nhận ra mối quan hệ thân thuộc đó qua việc so sánh tiếng Hebrai với tiếng Ả Rập và tiếng Aramê. Có thể nói, người Do Thái là những người đầu tiên tiến hành công việc so sánh trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Thời kỳ Phục Hưng, việc nghiên cứu ngôn ngữ được mở rộng ra nhiều ngôn ngữ. Đồng thời với việc tiếp tục nghiên cứu các văn bản tiếng Latinh và tiếng Hi Lạp, người ta cũng bắt đầu nghiên cứu tiếng Do Thái và tiếng Ả Rập. Vào các thế kỷ XVII-XVIII, việc nghiên cứu được mở rộng ra các thứ tiếng khác, như tiếng Pháp, tiếng Anh hay các thứ tiếng Xcăngđinavơ, v.v… Đáng chú ý là trong thời kỳ này, do ảnh hưởng của các trường phái nghiên cứu ngữ pháp và trên cơ sở tư liệu tiếng Pháp, Latinh, Hi Lạp và Do Thái, A. Ácnôn (A. Arnauld) và Cl. Lăngxơlô (Cl. Lancelot) đã biên soạn và xuất bản vào năm 1600 tại Pari cuốn “Ngữ pháp tổng quát và duy lý” (Grammaire génrale et raisonnée), trong đó các tác giả đã tiến hành so sánh các ngôn ngữ với nhau để tìm ra những mô hình ngữ pháp đáp ứng các công thức lôgích, phù hợp với ý tưởng về việc xây dựng một lý thuyết ngữ pháp phổ quát cho mọi ngôn ngữ. Ý tưởng này đã gây tiếng vang lớn, và có thể nói đây là một trong những bước đi quan trọng đầu tiên tiến tới hình thành Ngôn ngữ học so sánh sau này. Tuy nhiên, có thể thấy rõ một điều là trong thời kỳ này, cách tiếp cận lôgích học đối với các sự kiện ngôn ngữ vẫn bao trùm lên các trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ.
Cùng với việc mở rộng nghiên cứu các ngôn ngữ ngoài châu Âu (như các ngôn ngữ châu Mỹ hay châu Á), và đặc biệt là nhờ sự tiếp cận với tiếng Phạn, các nhà ngôn ngữ học châu Âu đã bước vào một thời kỳ nghiên cứu mới: thời kỳ nghiên cứu so sánh ngôn ngữ. Người có công đầu trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ học so sánh là G. V. Leibniz (1646-1716). Chính ông đã nêu lên nguyên tắc khoa học là cần phải so sánh các sinh ngữ với nhau để tìm ra cội nguồn của ngôn ngữ. Hàng loạt các công trình nghiên cứu so sánh đã lần lượt ra đời. Người ta không chỉ so sánh các ngôn ngữ châu Âu với nhau mà còn so sánh chúng với các ngôn ngữ khác, như với tiếng Phạn hay với tiếng Ba Tư cổ, hoặc so sánh tiếng Phạn với các ngôn ngữ khác.
Tuy nhiên, những xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ kể trên chưa thể được nhìn nhận như là một ngành khoa học độc lập, vì rằng trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ này còn thiếu hẳn một đối tượng được xác định rõ ràng, một phương pháp luận cũng như một hệ thống các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu. Phải đến thế kỷ XIX, ngôn ngữ học mới tự khẳng định được là một bộ môn khoa học được tổ chức tương đối quy củ và có thể đứng độc lập. Đó là khi xuất hiện tại những vùng khác nhau của châu Âu những công trình nghiên cứu so sánh – lịch sử.
Trước tiên, phải kể đến nhà ngôn ngữ học người Đức tên là F.Bopp, người đã dày công so sánh tiếng Phạn với các ngôn ngữ khác và đã trình bày các kết quả nghiên cứu so sánh đó trong các tác phẩm: “Về hệ thống biến ngôi các động từ của tiếng Phạn so với hệ thống tiếng Hi Lạp, Latinh, Ba Tư và Đức” (1816) và “Ngữ pháp so sánh của tiếng Phạn, Zend, Acmêni, Hi Lạp, Latinh, Lítva, Xlavơ cổ, Gốt và Đức” (1833-1852). Ông là người đầu tiên hiểu được rằng việc nghiên cứu các mối quan hệ lẫn nhau giữa các ngôn ngữ châu Âu có thể trở thành một ngành nghiên cứu khoa học. Trước Bopp đã có W. Jones (người Anh) và cùng thời với Bopp còn có R.K. Rask (người Đan Mạch) cũng đã tiến hành nghiên cứu so sánh ngôn ngữ, song cả hai nhà ngôn ngữ học đó đều không đạt được tầm cỡ của Bopp, bởi vì họ không nâng được những quan tâm nghiên cứu so sánh của mình lên thành lý luận, làm cơ sở cho ngôn ngữ học so sánh. Tuy nhiên, nhiều nhà ngôn ngữ học lại coi R.K.Rask là người khởi đầu cho ngôn ngữ học lịch sử, vì ông nhiều lần nhấn mạnh đến sự cần thiết phải áp dụng các tiêu chí lịch sử trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ của mình, mà đáng chú ý nhất là tác phẩm “Nghiên cứu sự hình thành của tiếng Thượng Đức cổ hay tiếng Aixơlen” (1818), trong đó ông xác định mối quan hệ thân thuộc của một số ngôn ngữ, dựa trên những nét tương ứng về ngữ âm giữa chúng.
Bên cạnh các nhà ngôn ngữ học so sánh kể trên, còn có nhiều tên tuổi sáng giá khác mà nhờ có họ, thế kỷ XIX trở thành kỷ nguyên của ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Đó là J. Grimm, tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Đức” nổi tiếng, người được coi là ông tổ của ngôn ngữ học Đức. Thực ra, Grimm không chỉ nghiên cứu các vấn đề của tiếng Đức mà còn so sánh đặc điểm ngữ pháp của các ngôn ngữ trong nhóm ngôn ngữ Giécman (tiếng Gốt, Đức, Hà Lan, Anh, Frigơ, các ngôn ngữ Xcăngđinavơ). Sau này, ông còn so sánh cả các yếu tố ngữ âm của tiếng Đức với các ngôn ngữ Ấn-Âu khác nữa. Ông đã rút ra quy luật biến đổi ngữ âm giữa các ngôn ngữ đó (được gọi là Định luật Grimm). Đó còn là J. K. Zeuss, nhà ngôn ngữ học người Đức có công mở đầu cho ngữ pháp so sánh của các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Xentơ; F. Diez, cũng là nhà ngôn ngữ học Đức và là người sáng lập ra ngôn ngữ học so sánh của các ngôn ngữ Rôman; J. Dobrovsky, nhà ngôn ngữ học người Séc, A. N. Vostokov nhà ngôn ngữ học người Nga và F. Miklosich, nhà ngôn ngữ học người Xlôvakia, những người đã có những đóng góp quan trọng đầu tiên trong việc nghiên cứu các ngôn ngữ Xlavơ. Ngoài ra, trong số các nhà ngôn ngữ học đại diện cho kỷ nguyên ngôn ngữ học so sánh-lịch sử còn có A. F. Pott, nhà ngôn ngữ học Đức, một trong số những người đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu từ nguyên một cách khoa học.
Ngôn ngữ học so sánh-lịch sử đã phát triển nhanh chóng và đạt đến đỉnh cao vào năm 1863, khi A. Slaikherơ (A. Schleicher), một nhà lý luận ngôn ngữ học nổi tiếng người Đức, công bố tác phẩm “Học thuyết Đác Uyn và ngôn ngữ học”. Vốn là nhà ngôn ngữ học so sánh – lịch sử và do ảnh hưởng của học thuyết Đác Uyn, Slaikherơ đã cố gắng đưa các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên vào ngôn ngữ học, mà nhất là ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Ông quan niệm ngôn ngữ cũng giống như một cơ thể sống: cũng sinh ra, phát triển và tàn lụi, và giống như con người, ngôn ngữ cũng có cây phả hệ: có ngôn ngữ thuỷ tổ, từ đó tách ra nhiều chi nhánh ngôn ngữ và do vậy, những ngôn ngữ này có quan hệ thân thuộc với nhau. Bởi thế, có thể tái tạo lại được ngôn ngữ thuỷ tổ (ví du: của các ngôn ngữ Ấn-Âu) và xác định được các dòng họ ngôn ngữ. Quan điểm của Slaikherơ đã gây tiếng vang lớn và ông đã có thêm nhiều môn đệ (ví dụ: J. Schmidt hay M. Muller). Tuy nhiên, quan điểm nghiên cứu của Slaikherơ đã bị chính một số học trò của ông phê phán, vì có nhiều điểm không họp lý, nhất là quan niệm về bản chất tự nhiên của ngôn ngữ.
Phương pháp nghiên cứu so sánh – lịch sử được các nhà ngôn ngữ học Đức trong nhóm Leipzig tiếp tục hoàn thiện thêm. Trong khi phê phán các quan điểm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, bổ sung những khiếm khuyết của họ và tìm tòi những hướng đi mới, các nhà ngôn ngữ học Leipzig đã làm cho phương pháp nghiên cứu so sánh – lịch sử đạt đến độ chính xác cao của khoa học. Họ đã cố công nghiên cứu tỉ mỉ từng chi tiết của các ngôn ngữ qua tất cả các giai đoạn phát triển của chúng để tìm ra các quy luật ngôn ngữ. Các công trình nghiên cứu tỉ mỉ và tận tâm của họ đã mang lại kết quả không thể phủ nhận: họ đã tập hợp được nhiều kiến thức về hiện thực của các ngôn ngữ, mà từ đó có thể hình thành những quan điểm lý thuyết mới. Chính vì vậy, trường phái Leipzig được gọi là trường phái Ngữ pháp trẻ và được dành cho một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển của ngôn ngữ học. Tuy nhiên, tên gọi “Các nhà ngữ pháp trẻ” không chỉ bao gồm nhóm những nhà ngôn ngữ học của trường Đại học tổng hợp Leipzig bắt đầu hoạt động vào những năm bảy mươi của thế kỷ XIX mà còn bao gồm tất cả các nhà ngôn ngữ học sau này có quan điểm và phương pháp nghiên cứu giống như họ.
Trước các nhà ngữ pháp trẻ một chút, có một nhà ngôn ngữ học nổi lên như là một trong những nhà lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành ngôn ngữ học hiện đại. Đó là nhà ngôn ngữ học Đức tên là W. von Humbôn (W. von Humdoldt), người được coi là nhà lý luận ngôn ngữ học lớn nhất của thế kỷ XIX và ông tổ của ngôn ngữ học đại cương. W. Humbôn đã tiến hành nghiên cứu một ngôn ngữ xa lạ đối với châu Âu lúc bấy giờ: tiếng Kavi ở Inđônêxia. Do được tiếp cận với những đặc điểm ngôn ngữ rất khác với các ngôn ngữ Ấn-Âu, Humbôn đã có cái nhìn khác về bản chất và chức năng của ngôn ngữ so với các nhà ngôn ngữ học đương thời. Ông không coi vấn đề lịch sử ngôn ngữ (lịch đại) là quan trọng nhất mà là tình trạng ngôn ngữ đặc trưng cho thời điểm nào đó (đồng đại). Do vậy, ông đã đối chiếu các ngôn ngữ mà không phải để ý đến các mối quan hệ thân thuộc giữa chúng. Ông cũng không cho rằng có một thứ ngữ pháp phổ quát cho mọi ngôn ngữ mà mỗi ngôn ngữ có những cấu trúc ngữ pháp riêng. Do đó cần phải nghiên cứu ngữ pháp của các ngôn ngữ một cách độc lập. Hơn nữa, mỗi dân tộc có cách nhìn riêng đối với hiện thực khách quan, mà đó là do các yếu tố như tâm lý hay văn hoá, do đó cần phải gắn việc nghiên cứu lịch sử của một ngôn ngữ với việc nghiên cứu lịch sử văn hoá của dân tộc đó. Các quan điểm của Humbôn được nhiều nhà ngôn ngữ học tin theo, trong đó có nhiều nhà ngôn ngữ học nổi tiếng, như L. Weisgerber, J. Trier, hay G. Ipsen.
Hầu như cùng thời với các nhà ngữ pháp trẻ, tại một trường đại học tỉnh lẻ ở Kazan, thuộc Nga, có một giáo sư ngôn ngữ học đã nghiên cứu các vấn đề ngữ pháp dưới góc độ hoàn toàn khác. Đó là J. Bôđuanh đờ Cuốctơne (J. Baudouin de Courtenay). Khác với các nhà ngữ pháp trẻ chỉ quan tâm nghiên cứu về sự phát triển của ngôn ngữ, đờ Cuốctơne lại đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi: Ngôn ngữ là gì? Mối quan hệ của nó với toàn bộ hoạt động nói năng như thế nào? Đây là những vấn đề mấu chốt đối với việc xác định đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học và là căn cứ để khẳng định tư cách tồn tại của ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ. Chẳng hạn, Đờ Cuốctơne đã phân biệt ngôn ngữ của tập thể và ngôn ngữ của các cá nhân, hoặc phân biệt sự khác nhau giữa việc xem xét các sự kiện ngôn ngữ trong quá trình phát triển (lịch đại) và xem xét các sự kiện ngôn ngữ tại một thời điểm nhất định (đồng đại). Quan điểm của Đờ Cuốctơne về các vấn đề này đã vượt xa những quan niệm thời đó và cho đến bây giờ, nhiều ý kiến của ông vẫn còn giá trị. Có thể nói, chính Cuốctơne là người đã khai sinh ra ngôn ngữ học hiện đại, vì ông là người đầu tiên khơi lên các vấn đề mấu chốt nhất của ngôn ngữ học. Ông đã trình bày các quan điểm của mình trong tác phẩm: “Thử tìm lý thuyết về sự luân phiên ngữ âm” (1894).

Song, trong ngôn ngữ học, người ta lại coi năm 1916 là bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử ngôn ngữ học, vì đó là năm xuất bản cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” của một giáo sư ngôn ngữ học người Thụy Sĩ tên là Phécđinăng đờ Xốtxuya (F. de Saussure). “Giáo trình…” không phải do tự tay tác giả viết ra mà là tập hợp các bài giảng của ông do hai sinh viên ghi chép được và biên soạn lại, rồi xuất bản thành sách sau khi ông qua đời. Với “Giáo trình…”, lần đầu tiên trong suốt quá trình hình thành ngôn ngữ học, các quan điểm về bản chất của ngôn ngữ và phương pháp luận nghiên cứu ngôn ngữ được trình bày khá đầy đủ và có hệ thống. Nó đánh dấu một bước tiến dài trong ngôn ngữ học, và ngày nay, hầu hết các công trình nghiên cứu ngôn ngữ có tầm cỡ, dù chấp nhận hay phản bác các quan điểm của Xốtxuya, đều phải nhắc đến cuốn giáo trình của ông.
Có thể nói, đối với sự phát triển của ngôn ngữ học hiện đại, đóng góp quan trọng nhất của Xốtxuya là những quan điểm của ông về ngôn ngữ với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Ông quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống được tổ chức chặt chẽ, trong đó giá trị của một yếu tố ngôn ngữ phụ thuộc vào sự có mặt của các yếu tố ngôn ngữ khác. Về cơ bản, hệ thống ngôn ngữ dựa trên sự đối lập lẫn nhau giữa các yếu tố ngôn ngữ và giá trị của một yếu tố ngôn ngữ được xác định trên cơ sở của sự đối lập đó. Do vậy, ngoài việc nghiên cứu ý nghĩa, cần phải nghiên cứu cả giá trị của các yếu tố ngôn ngữ để hiểu được bản chất của chúng. Tuy nhiên, lời nói có tính hình tuyến, nghĩa là tất cả các yếu tố của lời nói được thể hiện kế tiếp nhau theo thời gian, do đó khi nghiên cứu ngôn ngữ cần phải lưu ý đến thực tế này, mà đặc biệt là đối với các đơn vị ngôn ngữ, bởi vì thông thường giá trị của đơn vị ngôn ngữ thay đổi khi nó được kết hợp với các đơn vị khác. Hơn nữa, ngôn ngữ là tài sản chung của cộng đồng; nó được hiện thực hóa trực tiếp trong lời nói, vốn là sản phẩm của cá nhân. Nói chung, lời nói phù hợp với các chuẩn mực do ngôn ngữ áp đặt, song bản thân hành động lời nói lại tạo cơ hội cho sự vi phạm chuẩn mực, bởi vì các cá nhân có thể bắt đầu một sự thay đổi nào đó, rồi sau đó được người khác noi theo. Chính vì vậy, tuy giữa ngôn ngữ và lời nói có mối quan hệ mật thiết, song cũng có nhiều điểm khác nhau. Vì lý do đó, khi nghiên cứu cần phải phân biệt ngôn ngữlời nói: Lời nói là cái có thể quan sát một cách trực tiếp, do đó có thể làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp của ngôn ngữ học, còn ngôn ngữ là cái ẩn chứa trong lời nói và trong các thành viên của công đồng, do đó không thể nghiên cứu một cách trực tiếp mà chỉ có thể nghiên cứu một cách gián tiếp thông qua việc nghiên cứu lời nói. Ngoài ra, ngôn ngữ lại có thể được nghiên cứu ở hai mặt: đồng đại và lịch đại. Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học đồng đại (hay tĩnh trạng) là tình trạng của ngôn ngữ tại một thời điểm, còn của ngôn ngữ học lịch đại (hay diễn trình) là lịch sử của ngôn ngữ. Ngoài ra, về mặt lý luận, F. đờ Xốtxuya còn là người đầu tiên nêu lên vấn đề bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, coi ngôn ngữ là một loại tín hiệu và do đó, có thể coi nó là đối tượng nghiên cứu của một lĩnh vực khoa học mới – môn tín hiệu học.
Như vậy có thể nói, nhờ có W. Humbôn, B. đờ Cuốctơne và F. đờ Xốtxuya, ngôn ngữ học đã thực sự trở thành một ngành khoa học: Nó có một đối tượng nghiên cứu được xác định một cách rõ ràng, có phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu những khía cạnh hay những mặt cụ thể của ngôn ngữ. Ảnh hưởng của họ đối với sự phát triển của ngôn ngữ học là rất to lớn. Do ảnh hưởng của các quan điểm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học này, mà nhất là của F. đờ Xốtxuya, một khuynh hướng nghiên cứu mới đã ra đời và chi phối hầu như toàn bộ nền ngôn ngữ học hiện đại: khuynh hướng cấu trúc luận với các biến tướng khác nhau của nó. Một loạt các trường phái ngôn ngữ học có khuynh hướng cấu trúc luận được hình thành ở châu Âu và Mỹ. Cú thể kể ra một số trường phái đó như: trường phái cấu trúc-chức năng Praha (Séc), với các đại diện chính là N. S. Trubetzkoy, R. Jakobson và V. Mathesius; trường phái cấu trúc Côpenha (Đan Mạch) – thường được gọi là trường phái ngữ vị học mà đại diện là L. Hjelmslev; trường phái cấu trúc Mỹ (còn gọi là trường phái miêu tả Mỹ) với các tên tuổi nổi tiếng như E. Sapir), L. Bloomfield, hay Z. S. Harris. Ở Nga, trong những thập niên năm mươi và sỏu mươi của thế kỉ hai mươi, khuynh hướng cấu trúc luận cũng chi phối hầu hết các trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ quan trọng nhất.
Bên cạnh các trường phái ngôn ngữ học cấu trúc kể trên, còn có một số khuynh hướng nghiên cứu khác cũng khá thịnh hành, chẳng hạn như ngôn ngữ học cấu trúc-chức năng ở Pháp với đại diện chính là A. Martinet, hay trường phái ngữ cảnh luận Luân Đôn với đại diện là J. R. Firth, và đặc biệt là trường phái ngữ pháp tạo sinh-cải biên của N. Chomsky (Mỹ), một khuynh hướng nghiên cứu ngữ pháp rất được chú ý trong những thập niên sáu mươi và bảy mươi của thế kỉ trước, nhưng sau đó bị phê phán và mất dần ảnh hưởng. Tuy nhiên, trong tất cả các khuynh hướng nghiên cứu này, người ta đều có thể tìm thấy những nét chung với khuynh hướng cấu trúc truyền thống. Hay nói một cách khái quát hơn, dù đi theo khuynh hướng này hay khuynh hướng khác thì mục đích chủ yếu của ngôn ngữ học thế kỷ hai mươi vẫn là xác định hệ thống ngôn ngữ, bởi thế không thể không nghiên cứu cấu trúc của nó.
Ngày nay, để có thể xác định hệ thống ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học vẫn đang tiếp tục đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể của ngôn ngữ và đồng thời giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra liên quan đến ngôn ngữ . Các cách tiếp cận khác nhau với ngôn ngữ nói chung và với từng bộ phận cấu thành của ngôn ngữ núi riêng đã thúc đẩy sự hình thành những xu hướng nghiên cứu mới xoay quanh những vấn đề ngôn ngữ chưa được nghiên cứu đầy đủ, chẳng hạn như những xu hướng tiếp cận mới với các vấn đề ngữ nghĩa, ngữ dụng hay ngữ kết. Xu hướng nghiên cứu liên ngành cũng đang trở thành một thực tế hiển nhiên. Sự xuất hiện của những lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, trong đó có sự kết hợp của hai hoặc ba lĩnh vực nghiên cứu, ví dụ như: ngôn ngữ học tâm lý, ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học nhân chủng/ ngôn ngữ học nhân học, ngôn ngữ học tri nhận, càng làm cho vị trí của ngôn ngữ học trở nên vững chắc trong đời sống khoa học. Có thể thấy rằng ngôn ngữ học hiện đại một mặt tự phân ra thành những chuyên ngành nghiên cứu ngày càng hẹp, tương đối độc lập với nhau, nhằm giải quyết triệt để hơn các vấn đề ngôn ngữ, nhưng mặt khác lại có xu hướng thoát ra khỏi cái thứ chủ nghĩa biệt lập về trường phái cũng như về lĩnh vực nghiên cứu. Cho nên, trong các công trình nghiên cứu hiện nay, có thể nhận thấy sự kết hợp của nhiều phương pháp, thủ pháp nghiên cứu trong khuôn khổ một phương pháp luận nhất định. Đồng thời, xu hướng nghiên cứu liên ngành – kết hợp ngôn ngữ học với các ngành khoa học khác – cũng đang hứa hẹn những bước phát triển mới của khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ.

________________________________________________

Posted in 1, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

Nội dung NP tiếng Việt (ngày 8/04/2010)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 27, 2010

Ghi chú:

* Trong thực tế có thể bắt gặp những trường hợp, trong đó ‘được/bị’ được dùng không theo nguyên tắc đã nêu ở trên. Đó là cách sử dụng mang tính chất tu từ và do đó ý nghĩa của các từ này có thể thay đổi. Ví dụ:

1) Chẳng ai muốn bị cô ấy yêu.
2) Được thủ trưởng nhắc nhở là một vinh dự.

* Cũng có thể bắt gặp những trường hợp, trong đó ‘được’ và ‘bị’ được sử dụng cùng với nhau. Đó cũng là những trường hợp sử dụng mang tính chất tu từ và ý nghĩa chung sẽ phụ thuộc vào ‘được’ (nghĩa ‘tích cực’). Ví dụ:

1) Bà vẫn ao ước được … bị hiếp dâm nữa mà không bao giờ cái dịp hiếm có ấy lại tái hiện.
(Vũ Trọng Phụng)

* Ngoài ra, có những trường hợp, trong đó việc sử dụng cả ‘được’và ‘bị’ đều có thể được chấp nhận. Khi ấy sự khác nhau về nghĩa (tốt hay xấu) sẽ phụ thuộc vào thái độ của người nói đối với hiện thực. Ví dụ:

1) Nội dung tờ quảng cáo đã bị thay đổi.
2) Nội dung tờ quảng cáo đã được thay đổi.

11. Phó từ chỉ sự đồng nhất hoặc lặp lại

– Để chỉ sự đồng nhất/giống nhau hoặc sự lặp lại của các hành động/hoạt động/trạng thái, tiếng Việt chủ yếu sử dụng các phó từ: ‘cũng, đều, vẫn, còn, mải, cứ, mãi, nữa, lại’.

+ ‘cũng, đều, vẫn, còn, mải (mải miết), cứ’ là những phó từ thường được dùng để chỉ sự đồng nhất/giống nhau của hành động/hoạt động/ trạng thái và được đặt trước vị từ (động, tính từ, đại từ). Đáng chú ý là các phó từ này có thể kết hợp với nhau để nhấn mạnh thêm sự đồng nhất/giống nhau của hành động/hoạt động. Ví dụ:

1) Anh ấy cũng vẫn chưa viết xong khóa luận.
2) Chúng tôi cũng đều ăn cơm cả rồi..
3) Đã hai giờ sáng mà Hân vẫn còn thức
4) Họ đều còn đang ngủ.
5) Đêm đã xuống, nhưng họ vẫn cứ làm việc.
6) Họ vẫn mải nói chuyển riêng.

+ ‘mãi’ là phó từ thường được sử dụng sau động từ. Tuy nhiên, khi đi với động từ ‘là’ (‘być’) nó thường đứng trước, còn khi đi với các tính từ thì, nói chung, vị trí có thể linh hoạt. Ví dụ:

1) Người em cứ đi mãi, đi mãi.
2) Chúng tôi nguyện mãi là bạn tốt của nhau.
3) Chúc em mãi tươi trẻ!/Chúc em tươi trẻ mãi!

– Để chỉ sự lặp lại của hành động/hoạt động, tiếng Việt dùng các phó từ: ‘lại’, ‘nữa’. Cả hai phó từ này đều có thể kết hợp với các phó từ đã nêu ở trên để vừa chỉ sự giống nhau vừa chỉ sự lặp lại của hành động/hoạt động.

+ Phó từ ‘nữa’ đứng sau vị từ. Ví dụ:

1) Họ vẫn muốn hát nữa.
2) Tôi cũng không muốn đến đấy nữa.

+ Phó từ ‘lại’ có thể đứng trước hoặc sau vị từ và có ý nghĩa khác nhau. Khi đứng trước vị từ, nó biểu thị ‘sự tiếp tục’ của hành động, nhưng khi đi sau vị từ thì nó biểu thị ‘sự lặp lại’ của hành động. Ví dụ, so sánh:

Họ lại uống./ Họ đề nghị anh hát lại.

+ Từ ‘lại’ có thể kết hợp với ‘nữa’, tuy nhiên, khi đứng sau động từ thì nó không thể kết hợp trực tiếp với ‘nữa’ mà phải có nhóm từ ‘một lần’, ‘hai lần’… đi theo sau. Ví dụ:
1) Họ lại hát nữa. (+)
2) Họ hát lại nữa. (-)
3) Họ hát lại (bài hát ấy) một lần nữa. (+)

* Tuy nhiên, khi động từ được dùng ở dạng phủ định thì ‘lại’ có thể kết hợp trực tiếp với ‘nữa’. Ví dụ:

Họ không hát lại nữa. (+)

____________________________________________

Posted in 1, Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

Đối chiếu cấp độ từ vựng – Bình diện ngữ nghĩa

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 24, 2010

Lê Đình Tư

1. Ý nghĩa và cấu trúc ý nghĩa của từ

– Bình diện ngữ nghĩa của từ gọi chung là ý nghĩa của từ. Tuy nhiên, có nhiều cách hiểu về ý nghĩa của từ. Cách hiểu phổ biến hiện nay là: Ý nghĩa của từ là một cấu trúc gồm một số thành phần nhỏ hơn, mỗi thành phần trong cấu trúc ý nghĩa đó tương ứng với một chức năng của từ. Chẳng hạn, từ có chức năng gọi tên sự vật, hiện tượng và tương ứng với chức năng đó là thành phần ý nghĩa biểu vật của từ, còn tương ứng với chức năng biểu thị quan hệ của từ với các từ khác là thành phần ý nghĩa ngữ pháp của từ.

– Có hai phạm trù ý nghĩa của từ: Ý nghĩa từ vựngý nghĩa ngữ pháp. Mỗi phạm trù ý nghĩa lại bao gồm một số thành phần ý nghĩa nhỏ hơn. Xét về phạm trù ý nghĩa từ vựng, người ta phân biệt các thành phần ý nghĩa sau:

* Ý nghĩa biểu vật: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan. Tuy nhiên, đó chỉ là hình ảnh chung chung (khái quát) về sự vật hay hiện tượng chứ không phải là bản thân một sự vật hay hiện tượng cụ thể trong thực tế khách quan. Ví dụ: Ý nghĩa biểu vật của từ (con) gà trong tiếng Việt là hình ảnh về con gà chung chung, bị loại bỏ những đặc điểm cụ thể như màu lông, giới tính, cân nặng, độ tuổi…

* Ý nghĩa biểu niệm: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến ý niệm hay khái niệm về sự vật, hiện tượng. Chỉ có điều thành phần ý nghĩa này không trùng với khái niệm trong lô gích học vì đó là ý niệm hay khái niệm gắn liền với đặc điểm của ngôn ngữ. Ví dụ: Khái niệm “nước” trong tiếng Việt không trùng với khái niệm “nước” trong tư duy lôgích. Chính vì vậy, người ta nói đến khái niệm dân gian và khái niệm khoa học. Khái niệm dân gian là ý nghĩa biểu niệm của từ còn khái niệm khoa học là khái niệm của tư duy lôgích. Liên quan đến sự phân biệt này là hai khái niệm trong ngôn ngữ học tri nhận: bức tranh dân gian về thế giới, và bức tranh khoa học về thế giới.
Một điều hết sức quan trọng trong đối chiếu ý nghĩa từ vựng của các từ là cấu trúc của ý nghĩa biểu niệm: ý nghĩa biểu niệm bao gồm một số thành phần ý nghĩa nhỏ hơn gọi là nét nghĩa hay nghĩa vị. Các ngôn ngữ có thể khác nhau về cách tổ chức các nét nghĩa.

* Ý nghĩa ngữ dụng: Đó là thành phần ý nghĩa liên quan đến hoạt động của từ trong các tình huống giao tiếp, do vậy, thường chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để xác định thành phần ý nghĩa này. Ví dụ: Từ vịt giời trong tiếng Việt, ngoài ý nghĩa “loài chim sống hoang dã trong tự nhiên, cùng họ với vịt nhà”, còn có ý nghĩa ‘con gái’.
Ý nghĩa này mang đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc.

2. Những điểm cần lưu ý trong quá trình đối chiếu bình diện ngữ nghĩa

– Các từ có thể giống nhau (hoặc tương đồng) về hình thức và ý nghĩa. Thường thì đó là trường hợp của các ngôn ngữ cùng họ hay cùng nhóm. Ví dụ: Từ stolica của tiếng Ba Lan so với tiếng Nga.

– Các từ có thể giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa. Đó có thể là sự khác nhau một phần hoặc là sự khác nhau hoàn toàn. Ví dụ: Từ ‘bác sĩ’, ‘tiến sĩ’ trong tiếng Việt và tiếng Trung.

– Các từ giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức. Đây là những trường hợp thường thấy nhất khi đối chiếu từ vựng giữa hai ngôn ngữ. Tuy nhiên, thường không có sự giống nhau hoàn toàn về ý nghĩa giữa hai ngôn ngữ mà sẽ có sự khác biệt về cấu trúc ý nghĩa của các từ: các từ có thể khác nhau về một thành phần ý nghĩa hoặc một nét nghĩa nào đó. Ví dụ: so sánh cấu trúc nét nghĩa của từ ‘nước’ tiếng Việt và ‘water’ tiếng Anh; từ ‘nhà’ của tiếng Việt và từ tương đương của nó trong nhiều ngôn ngữ chỉ giống nhau một phần, vì ‘nhà’ trong tiếng Việt còn có ý nghĩa “chồng” hoặc “vợ”.

– Các từ khác nhau về cả hình thức lẫn ý nghĩa. Đối với những trường hợp này chỉ cần chú ý đến những từ có thể gây nhầm lẫn hoặc làm cho người học ngoại ngữ phạm lỗi.

– Các từ giống nhau về nghĩa gốc, nhưng khác nhau về nghĩa mở rộng (hay nghĩa phái sinh). Ví dụ: từ ăn trong tiếng Việt có nghĩa mở rộng là “mua” (ví dụ: Ăn con xe (máy) này đi!) mà nhiều ngôn ngữ khác không có.

3. Đối chiếu trường từ vựng-ngữ nghĩa

– Trước hết, cần phân biệt hai loại trường: Trường liên tưởngtrường tuyến tính.

– Đối chiếu trường liên tưởng là đối chiếu các nhóm từ có chung một nét nghĩa nào đó. Các trường từ vựng thường được chọn để nghiên cứu đối chiếu là: Từ chỉ một loại hoạt động (ví dụ: các động từ chuyển động, hoạt động nói năng), Từ chỉ phương tiện hoạt động (ví dụ: công cụ sản xuất), Từ chỉ quan hệ giữa người với người (ví dụ: quan hệ thân tộc), Từ chỉ màu sắc, Từ chỉ các bộ phận cơ thể (người và động vật), Từ chỉ động vật (ví dụ: động vật nuôi), Từ chỉ cây cối, Từ chỉ cảm xúc, Từ chỉ các món ăn…

– Đối chiếu trường tuyến tính là đối chiếu về khả năng kết hợp của từ. Khả năng kết hợp của từ liên quan đến cả cấp độ ngữ pháp, vì đó là khả năng thay thế nhau về chức năng ngữ pháp của các từ trong trường.

– Trong đối chiếu trường từ vựng-ngữ nghĩa, có thể phân tích những khác biệt giữa hai ngôn ngữ về:
+ danh sách các đơn vị thuộc trường: những từ có mặt trong trường của ngôn ngữ này nhưng không có mặt trong trường của ngôn ngữ kia;
+ cấu trúc ngữ nghĩa của trường nói chung và của từng đơn vị nói riêng;
+ tần số sử dụng, đặc biệt là sử dụng trong các thành ngữ, quán ngữ;
+ giá trị tu từ. Ví dụ: sự khác biệt về ý nghĩa biểu cảm, khả năng sử dụng trong các phong cách ngôn ngữ.

___________________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học đối chiếu | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »

Nội dung NP tiếng Việt (ngày 25/03/2010)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 20, 2010

– Những từ tình thái dùng để biểu thị ý nghĩa cầu khiến/động viên/thúc giục là: nào, vào, thôi, nhé.
+ Bình thường, chỉ cần sử dụng những từ nói trên cũng đủ thể hiện ý nghĩa cầu khiến/động viên/thúc giục. Ví dụ:

1) Mọi người vào đây cả nào!
2) Hết giờ rồi, về thôi!
3) Anh mua nhiều nhiều vào!
4) Đi cẩn thận nhé!

+ Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ta có thể kết hợp các từ tình thái này với các phó từ ‘hãy’, ‘đi’ đã nêu ở trên để tăng thêm ý nghĩa cầu khiến/mệnh lệnh. Ví dụ:

1) Mọi người hãy vào đây cả nào!/ Mọi người hãy vào đây cả đi nào!
2) Anh hãy mua nhiều nhiều vào!
3) Hết giờ rồi, hãy về thôi!/ Hết giờ rồi, hãy về đi thôi!
4) Hãy đi cẩn thận nhé!/ Hãy ăn no đi nhé!

+ Ngoài ra, các từ ‘nhé’, ‘nào’ còn có thể kết hợp với các từ ‘thôi’, ‘vào’ thành cặp để tăng thêm ý nghĩa động viên/thúc giục và tính biểu cảm. Ví dụ:

1) Hết giờ rồi, về thôi nào!/ Hết giờ rồi, về thôi nhé!
2) Con đi đứng cẩn thận vào nào!/ Con đi đứng cẩn thận vào nhé!

– Ngoài các từ nêu trên, với một số trường hợp, ta còn có thể sử dụng phó từ ‘lên’, và cũng có thể kết hợp nó các từ ‘nào’, ‘nhé’ nói trên để thể hiện ý nghĩa cầu khiến/ động viên/ thúc giục. Tuy nhiên, từ ‘lên’ có thể dùng với các tính từ. Ví dụ:

1) Cười lên!/ Cười lên nào!/ Cười lên đi!/ Hãy cười lên đi!
2) Tươi lên!/ Tươi lên nhé!/ Hãy tươi lên nào!

10. Các phương tiện biểu thị ý nghĩa dạng

Để biểu thị ý nghĩa ‘dạng bị động’, tiếng Việt dùng hai nhóm từ: 1) các phụ từ: ‘được’, ‘bị’, và 2) các giới từ: ‘do’, ‘bởi’.

– Các phụ từ ‘được’ và ‘bị’ vốn là những động từ (xem lại phần Từ loại tiếng Việt) đã được ngữ pháp hóa, do đó khi sử dụng cần phân biệt hai chức năng của chúng: chức năng biểu thị sự may/rủi và chức năng biểu thị ‘dạng bị động’ của động từ. Ví dụ, so sánh:

1) Người kia được cơm rượu lại được ba quan tiền. (‘được’ là động từ)
2) Ra đường, phụ nữ thường được nhìn kĩ hơn. (‘được’biểu thị dạng bị động)

– Từ ‘được’ dùng để biểu thị ‘dạng bị động’ nhưng có kèm theo nghĩa ‘tích cực’, vì vậy, về nguyên tắc, ta chỉ có thể kết hợp nó với những động từ có nghĩa ‘tích cực’ như: khen, tặng, thưởng, yêu, thương, xây dựng, …mà không thể kết hợp nó với những động từ có nghĩa ‘tiêu cực’ như: ghét, đánh, mắng, bỏ tù, từ chối,… Ví dụ:

1) Chị Hà được thưởng Tết 10 triệu đồng. (+)
2) Một cô gái được giết trong khách sạn. (-)
3) Nhà máy được xây dựng cách đây đã 60 năm. (+)
4) Anh ấy đã ngỏ lời hai lần nhưng đều được từ chối. (-)

– Trái lại, từ ‘bị’ dùng để biểu thị ‘dạng bị động’ nhưng có kèm theo nghĩa ‘tiêu cực’, vì vậy, về nguyên tắc, ta chỉ có thể kết hợp nó với những động từ có nghĩa ‘tiêu cực’,… mà không thể kết hợp nó với những động từ có nghĩa ‘tích cực’ Ví dụ:

1) Vì anh mà em bị mắng. (+)
2) Cuốn tiểu thuyết đã bị tặng thưởng giải nhất của Hội Nhà văn. (-)

– Trên đây là những ví dụ về câu dạng bị động chỉ có chủ ngữ (ngữ pháp) mà không có ‘chủ thể’ của hành động/hoạt động. Nguyên tắc chung khi sử dụng ‘được’ và ‘bị’ trong trường hợp này là: đặt các phụ từ này trực tiếp trước các động từ. Đối với những câu bị động có cả chủ ngữ (ngữ pháp) và ‘chủ thể’ của hành động/hoạt động, cần phải tuân theo mô hình kết cấu chung như sau:

S + (được/bị) + A + V
Ví dụ:
1) Bài ca của ông được nhiều người mến mộ.
2) Hôm nay con được cô giáo thưởng hoa hồng.

– Các giới từ ‘do’, ‘bởi’ có ý nghĩa trung hòa và thường được dùng theo mô hình kết cấu sau:
N + (do) + A + V (‘do’ thay cho ‘được’/ ‘bị’)
N + (được/bị) + V + (bởi) + A
Ví dụ:

1) Đây là loại ôtô do công ti Toyota sản xuất.
2) Bộ bàn ghế được làm ra bởi những người thợ tài hoa.

Posted in 1, Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Các bộ môn của ngôn ngữ học

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 19, 2010

Lê Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

Ngôn ngữ là một hiện tượng phức tạp và đa diện. Do vậy, nhiệm vụ của ngôn ngữ học cũng hết sức phức tạp và phạm vi nghiên cứu của nó rất rộng lớn. Để thực hiện được những nhiệm vụ to lớn đó, ngôn ngữ học được chia ra thành những ngành chuyên môn hẹp hơn có nhiệm vụ nghiên cứu một cấp độ nhất định của ngôn ngữ. Đó là những bộ môn của ngôn ngữ học. Cụ thể, ngôn ngữ học được chia ra thành:

1. Ngữ âm học: Là bộ môn nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ học hiện đại, người ta còn phân biệt hai ngành nghiên cứu cấp độ thấp nhất của ngôn ngữ, đó là:

Ngữ âm họcc: Là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu những âm cụ thể của lời nói, tức là nghiên cứu mặt vật lý và sinh học của các âm trong ngôn ngữ.

Âm vị học: Là bộ môn nghiên cứu chức năng của các âm, tức là nghiên cứu mặt xã hội của các âm trong những ngôn ngữ cụ thể. Nhiệm vụ chủ yếu của âm vị học là xác định hệ thống các đơn vị có chức năng khu biệt (âm vị) của ngôn ngữ, cũng như tính chất, chức năng và quan hệ lẫn nhau của chúng trong hệ thống ngôn ngữ.

2. Từ vựng học: Là bộ môn nghiên cứu về hệ thống từ vựng của ngôn ngữ. Nhiệm vụ của nó là xác định các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ : từ và các đơn vị tương đương từ, cũng như các mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị đó.

Trong từ vựng học, người ta lại phân ra những chuyên ngành hẹp hơn, đó là:

Cấu tạo từ (hay còn gọi là từ pháp học): Là bộ môn nghiên cứu cấu tạo của từ để xác định các cách thức tạo từ mới của các ngôn ngữ.

Ngữ nghĩa-từ vựng học: Là bộ môn nghiên cứu về nghĩa của các đơn vị từ vựng, sự biến đổi và các phương thức biến đổi ý nghĩa của các đơn vị từ vựng. Ngoài ra, nó còn nghiên cứu các mối quan hệ về nghĩa giữa các đơn vị từ vựng trong hệ thống ngôn ngữ.

Từ nguyên học: Là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử phát triển của các đơn vị từ vựng.
Từ điển học: Là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu những nguyên tắc biên soạn, và biên soạn các loại từ điển.
Danh học: Là bộ môn nghiên cứu về các tên riêng trong ngôn ngữ.

3. Ngữ pháp học: Là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu về hệ thống các phương tiện ngôn ngữ và các quy tắc dùng để tổng hợp các đơn vị từ vựng thành những đơn vị lớn hơn (cụm từ và câu). Trong ngữ pháp học, người ta phải phân ra hai bộ môn hẹp hơn đó là:

Hình thái học: Là bộ môn nghiên cứu về cấu tạo hình thái của từ, các quy tắc cấu tạo hình thái và biến đổi hình thái của từ cũng như đặc trưng ngữ pháp của từ. Đối với các ngôn ngữ không biến hình, người ta có xu hướng sử dụng thuật ngữ “từ pháp học” để thay cho thuật ngữ “hình thái học”. Trong thực tế, từ pháp học không chỉ nghiên cứu các đặc trưng ngữ pháp của từ mà còn nghiên cứu cả vấn đề cấu tạo từ mới.
Cú pháp học: Là bộ môn nghiên cứu về các quy tắc kết hợp các đơn vị từ vựng thành những đơn vị lớn hơn: cụm từ và câu.

4. Phong cách học: Là bộ môn nghiên cứu các cách thức vận dụng những phương tiện ngôn ngữ (các yếu tố ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) trong các hoạt động giao tiếp khác nhau nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp mong muốn. Nhiệm vụ của phong cách học là nghiên cứu các biến thể chức năng của ngôn ngữ – các phong cách ngôn ngữ. Đó có thể là những phong cách có tính xã hội mà về đại thể được hình thành trên cơ sở những quy định hoặc thói quen truyền thống chung nên ít nhiều có tính khuôn mẫu, ví dụ: phong cách chớnh luận-báo chí, phong cách hành chính, phong cách khoa học, song cũng có thể là những phong cách mang tính cá nhân, biểu hiện ở những sáng tạo riêng của các cá nhân trong việc vận dụng các phương tiện ngôn ngữ, ví dụ như phong cách riêng của các nhà văn, nhà thơ, hay các thủ lĩnh, lãnh tụ, v. v…

Trên đây là bức tranh chung của các bộ môn ngôn ngữ học truyền thống. Ngày nay, bức tranh này đã thay đổi nhiều, đặc biệt là đã hình thành nhiều lĩnh vực nghiên cứu trung gian, như ngôn ngữ xã hội học, ngôn ngữ tâm lí học, ngôn ngữ học tri nhận

_________________________________________________

Posted in 1, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , , | Leave a Comment »

Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 18, 2010

Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

Với quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết, họ đã rất chú trọng đến việc xử lý ngôn ngữ. Người viết đã kết hợp khéo léo tiếng nói của một thời đã qua và tâm lý của người đọc thời hiện tại. Mỗi trang viết của họ thực sự tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ. Đọc tiểu thuyết lịch sử hôm nay người đọc như vừa được sống lại không khí của từng sự kiện lịch sử xa xưa, vừa cảm thấy gần gũi, thân quen như chính cuộc sống này. Qua các tiểu thuyết lịch sử viết sau năm 1975 được dư luận đánh giá cao, chúng tôi rút ra một số đặc điểm chính về ngôn ngữ như sau.

1. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính

Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy các sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử làm đề tài, cảm hứng sáng tạo. Đó là những sự việc, con người của một thời đã qua, cách chúng ta hàng thế kỉ. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phục dựng lại được không khí của thời đại đó, phân biệt con người hôm qua với con người hôm nay. Bởi vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính không thể thiếu trong bất cứ tiểu thuyết lịch sử nào. Lớp ngôn ngữ này được sử dụng trong cả lời của nhân vật và lời của người kể chuyện. Câu chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử thường là về một vương triều nào đó, gắn với những ông vua, bà hoàng cụ thể. Nghĩa là các sự kiện và con người trong tiểu thuyết lịch sử hầu hết đều liên quan đến đời sống cung đình. Vì vậy nên ngôn ngữ cung đình, quan phương được sử dụng với tần số lớn. Mỗi nhân vật trong các tác phẩm đều gắn với một chức phận, một triều đại nhất định. Người viết tiểu thuyết lịch sử phải giúp người đọc nhận biết được đặc điểm ngôn ngữ, tâm lý của con người thời đại đó. Từ vua đến quan đều phải giao tiếp với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mang tính quy phạm, tương xứng với địa vị của mỗi người. Dù là một ông già gần đất xa trời hay là một đứa trẻ lên ba đã lên ngôi vua đều xưng là “trẫm”, “ta” một cách rất trịnh trọng. Còn những kẻ bề dưới khi xưng hô với bề trên đều phải xưng là thần, khi nói phải “xin”, “tâu” rất cung kính. Lối ăn nói quy phạm ấy ngấm cả vào trong đời sống riêng tư nhất. Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (tiểu thuyết Hồ Quý Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn đạo vua tôi nghiêm ngặt. Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: “Khanh vẫn đắm mình trong rượu ư?”. Nguyên Trừng đáp: “Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu thần này không thể không say được”. Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: “Cũng như ta chứ sao? Thật không thể không đi tu được” [5, tr.450]. Vua Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ) trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo khi gặp sư bà động Trầm đã có những linh cảm kì lạ: “Đôi mắt ấy hắt cái ánh sáng kì lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tụt rơi đâu mất. Một mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần Tông sững sờ” [4, tr.274], “Dáng vẻ lạ lẫm và cái mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại” [4, tr. 275]. Dù đang trong cảm giác đê mê với những rung cảm kì lạ nhưng khi nói với sư bà, Thần Tông vẫn giữ lối nói khuôn phép: “Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm” [4, tr.282], “Sư bà… không đựơc lộng ngôn mạn thượng” [4, tr.283], “Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dẫu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở, đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha” [4, tr.289].

Viết về một thời quá khứ xa xưa của dân tộc, các tác giả tiểu thuyết lịch sử sau 1975 đã tạo nên một không khí chân thực cho tác phẩm qua việc ghi lại các mốc thời gian lịch sử. Các sự kiện lịch sử được được đánh dấu bằng những mốc thời gian chính xác như: Năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Mậu Thìn (Hồ Quý Ly); “Đinh Mùi tháng Chạp. Ngày ất Dậu, giờ Dần”, “Hội Tường, đại khánh năm thứ nhất”, “Mậu Thìn, Quảng Hựu năm thứ tư”, “Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự năm thứ tư”, “Nhâm Tý, Thái Nình năm thứ nhất”, “Thuận Thiên năm thứ hai”, “tháng 10 Mậu Ngọ, Thiệu Ninh năm thứ nhất’, “Năm Hội Phong thứ 7” (“Giàn thiêu”). Trong “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác là: “Đầu năm Mậu Tý”, “Năm Tân Mão (1771)”, “Tháng 3 năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng vương”, “Tết Đinh Dậu (1777)”, “Từ tháng 4 đến tháng 6 năm Đinh Dậu (1777)”, “đầu năm Mậu Tuất (1778)”, “Mùa đông năm Nhâm Dần (1782)”, “Tháng Giêng năm Quý Mão (1783)”, “Tháng 10 năm Giáp Tìn (1784)”, “Sáng 10 tháng 7 năm Bính Ngọ “, ” ngay sau khi nghe tin quân Thanh xâm lấn Bắc Hà, vua Quang Trung cấp tốc ra lệnh xuất quân ra Bắc ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), ngày 29 ra đến Nghệ An”. Trong tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn ” của Nguyễn Xuân Khánh, các sự kiện cũng được đánh dấu bằng các mốc thời gian cụ thể: tháng 5 năm 1883, năm 1858, tháng 7 năm 1861, năm 1873 (Quý Dậu), năm Nhâm Ngọ (1882)… Đây là cách viết quen thuộc của sử biên niên. Cách viết nhằm xác nhận tính chân thực của các sự việc, tạo ra sự tin tưởng cao độ nơi người đọc. Cách viết này còn giúp người đọc hình dung cụ thể hiện thực của từng thời kỳ lịch sử. Qua các mốc thời gian sự kiện, từng hành động, tâm lý của con người cũng hiện lên, phơi bày toàn bộ những sóng gió trong đời sống triều chính ở một xã hội phong kiến phương Đông.

Ngôn ngữ quan phương, cổ kính còn được thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo. Do đặc điểm lịch sử riêng, nhiều tôn giáo của nước ngoài đã du nhập vào Việt . Người Việt đã tiếp nhận các tôn giáo đó một cách có chọn lọc, phù hợp với tâm lý, nếp sống của mình. Mỗi triều đại gắn với sự phát triển của những tôn giáo, học thuyết nhất định. Bởi vậy, sử dụng hệ thống thuật ngữ mang màu sắc tôn giáo cũng là một cách tái hiện lại không khí của thời đại đó. Thời Lý ghi nhận sự phát triển của đạo Phật. Bởi vậy, trong tiểu thuyết “Giàn thiêu”, nhà văn Võ Thị Hảo đã sử dụng đầy ắp ngôn ngữ Phật giáo. Nhiều chương trong tác phẩm được đặt tên bằng những khái niệm nhà Phật: “Ngược thác oan” (chương VIII), “Niệm xứ” (chương XI), “Đoạ xứ” (chương XII), “Nghiệp chướng” (chương XV), “Hành cước” (chương XVI), “Báo oán” (chương XVII), “Thiền sư” (chương XVIII), “Đầu thai” (chương XX), “Giải thoát” (chương XXI) (9/25 chương). Tiểu thuyết mở đầu bằng lời của Phật nói với các tỳ kheo: “ơ các tỳ kheo! Nếu các người lại để mình mắc vào thuyết ấy, nếu các người ưa thích nó, nếu các người mê luyến nó, gìn giữ nó như một kho bảo vật, nghĩa là các người bị ràng buộc vào nó, thì các người đâu có hiểu rằng giáo lý của ta có khác nào là chiếc bè để đưa qua sông chứ không phải để buộc trói người vào đó ” [4, tr.17]. Khắp tác phẩm văng vẳng những lời cầu kinh: “… An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phà… ” [4, tr.20].

“Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau lên thuyền Bát Nhã
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm vượt qua bể
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau đến nhà vô vi …” [4, tr.22].

Các nhân vật trong truyện cũng thường nói với nhau bằng ngôn ngữ nhà Phật. Vị Thượng tọa nói với vua Thần Tông: “Mô Phật! Kẻ tu hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp… ” [4, tr.50]. Lời Từ Lộ khấn người cha bị chết oan: “Lạy cha… Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống đề trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám” [4, tr.78]. Nhìn thấy sự sa đọa của Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ), sư bà động Trầm (Nhuệ Anh) thốt lên đau đớn: “Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng ” [4, tr.319]. Đạo Phật hướng con người tới lối sống thoát tục, rũ bỏ những dục vọng tầm thường, sống từ bi hỉ xả. Những con người trong tác phẩm thấm nhuần triết lý nhân đạo của đạo Phật, sùng bái đạo Phật nhưng ngọn lửa dục vọng vẫn rừng rực cháy trong họ. Những toan tính, tham vọng cá nhân đã khiến họ lún sâu vào tội ác. Họ tụng kinh, niệm Phật như để che giấu những tội lỗi mà họ đã gây ra.

Tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh kể về giai đoạn lịch sử thế kỷ XIV – XV. Đó là thời kỳ cực thịnh của Nho học. Nho giáo trở thành quốc giáo, chi phối trong từng lời nói, nếp nghĩ của con người. Trong những lời tấu trình, thậm chí cả khi trò chuyện các nhân vật đều viện dẫn sách vở, kinh điển Nho gia. Trong hội thề Đồng Cổ, vua Nghệ Tôn nói với các cận thần: “Kẻ làm tôi bất trung thì thần linh tru diệt” [5, tr.22]. Hồ Quý Ly nói với con trai “Người quân tử cũng phải biết chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được” [5, tr.54].

Tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác viết về thời đại Tây Sơn. Đó là thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra rầm rộ, Nho học bước vào buổi cuối mùa. Lớp ngôn ngữ cung đình, Nho – Phật do vậy chỉ còn rơi rớt nơi cung vua, phủ chúa điêu tàn, rệu rã và trong lời những nhà nho thất thế.

Tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh tái hiện lại bức tranh xã hội ViệtNam những năm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Đó là thời kì Thiên chúa giáo bắt đầu len lỏi vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, trong khi Nho học tuy bước vào buổi cuối mùa nhưng vẫn chưa lụi tắt, đạo Phật vẫn sống trong đức tin của người dân Việt. Trước sự xâm thực của Thiên chúa giáo với âm mưu đồng hoá về văn hoá của thực dân Pháp, người dân Việt đã lựa chọn cho mình một cách ứng xử mềm dẻo. Họ tiếp nhận những phần tốt đẹp của các tôn giáo, đồng thời vẫn thờ đạo riêng của mình: Đạo Mẫu, thờ Đất Mẹ thiêng liêng. ở thời buổi giao thoa giữa các tôn giáo ấy, ngôn ngữ cũng có điểm đặc biệt. Ngôn ngữ của cụ đồ Tiết, cụ cử Khiêm, phó bảng Vũ Duy Tân mang khẩu khí của những nhà Nho học. Cụ cử Khiêm nói với học trò: “Việc có thị có phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì trái với điều ấy thì không làm ” [6, tr.285]. Với những người theo đạo Thiên chúa, lời nói của họ luôn hướng đến Chúa như tìm đến sức mạnh, niềm tin. Phần lớn người dân Việt thờ đạo riêng của mình – Đạo Mẫu tạo nên thứ ngôn ngữ riêng bao phủ khắp tác phẩm. Người già kể cho con trẻ nghe, con trẻ lại truyền cho nhau những câu chuyện về “Thánh Mẫu”, “giá Mẫu”, “ốp đồng”, “cô hầu”, “hát chầu văn”… Mặc dù cùng lúc tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng người Việt đã nhận ra và hành xử theo những điều tốt đẹp mà các tôn giáo mang lại. Ngôn ngữ của người dân chủ yếu là ngôn ngữ khuyến thiện. Cha Colombert nói với bà Vũ Thị Ngát: “Đạo thánh hiền cũng có những điều giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn đạo Thiên chúa thì lấy tình thương yêu con người làm căn bản… ” [6, tr.302]. Bà Tổ cô tâm sự với cô Mùi: “Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo Giêsu cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện” [6, tr.696]. Lớp ngôn ngữ tôn giáo này đã cho ta thấy bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của Việt trong buổi giao thời. Và điều quan trọng hơn hệ thống ngôn ngữ này còn cho thấy cách ứng xử thông minh của người Việt trước nguy cơ bị đồng hoá về văn hoá để có thể đứng vững, trường tồn.

Như vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính có vai trò rất quan trọng trong các tiểu thuyết lịch sử. Lớp ngôn ngữ này mang lại hơi thở thời đại cho các tiểu thuyết lịch sử, thuyết phục người đọc bằng những chứng cứ cụ thể, chi tiết. Đồng thời nó còn là phương tiện khám phá đời sống bên trong của các vương triều và trong tâm hồn con người.

2. Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu sắc

Nếu như chỉ sử dụng lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tiểu thuyết lịch sử sau 1975 sẽ chẳng khác gì một cuốn sử biên niên, thuần tuý ghi chép, mô tả lại các sự việc. Và như thế, mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử sẽ giống như một cuốn sách giáo khoa lịch sử, chứa đầy những chi tiết khô khan, kinh viện. Người đọc chỉ thấy được lớp vàng son bề ngoài của nó mà không hiểu hết được bản chất bên trong. Việc đưa ngôn ngữ đời sống vào trong tác phẩm có thể xem là một hành động phá cách, vượt chuẩn của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tạo cho người đọc niềm tin vào sự có thật của các chi tiết được kể, còn lớp ngôn ngữ hiện đại, trần trụi lại giúp người đọc được sống trong không khí thật của câu chuyện, cảm nhận được sự gần gũi, thân quen trong từng lời kể, làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”. Điều quan trọng hơn là, với lớp ngôn ngữ này, người viết có điều kiện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, đầy ngõ ngách của con người. Toàn bộ bản chất của con người theo lời nói được bộc lộ ra. Từ đây, những “nghi vấn” lịch sử cũng được giải thích một cách thoả đáng, thuyết phục hơn.

Trong tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”, lớp ngôn ngữ đời thường chiếm tuyệt đối. Các nhân vật chính trong tác phẩm đều xuất phát từ tầng lớp thường dân áo vải. Nguyễn Nhạc trước khi trở thành vua Thái Đức đã phải xoay sở đủ nghề, từ khai khẩn đất hoang, buôn nguồn đến làm chức đốc thuế để nuôi em và tạo dựng sự nghiệp. Vua Quang Trung trước đó cũng chỉ là một trí thức bình dân. Bởi vậy, cách nói năng của họ rất tự nhiên, thoải mái, thậm chí suồng sã, không khác gì dân thường. Vua Thái Đức khi nói chuyện với Ngọc Hân – công chúa của nhà Lê, phu nhân của Nguyễn Huệ, đã dùng những từ ngữ rất thân mật như những người trong gia đình thường dân nói với nhau: “Thím cầm chân được chú Tám nhà này là giỏi rồi, là trở thành ân nhân của ta rồi. Chỉ trông cái bộ bẽn lẽn của chú ta cũng biết ngựa hoang đã bị đóng cương rồi đấy!” [2]. Thế nhưng, khi giận dữ, toàn bộ bản chất của một gã buôn nguồn nhiều mánh lới trong Nguyễn Nhạc lại tuôn qua từng lời nói.

Khi giận Nguyễn Huệ đã tự ý kéo quân ra Bắc, ông chửi mắng bằng những lời thậm tệ: “Bầy “ngựa non háu đá” mê đường trường không chịu về chuồng. Các người đoán đúng lắm. Mỗi đứa bịa ra một cớ để ở lì ngoài đó. Toàn là một lũ vong ân bội nghĩa” [2], “Cút đi. Về bảo cái bọn sai tụi mày vào đây là ta đã xé tờ biểu như vậy đó. Quân vô ơn bội nghĩa. Nếu không có ta gầy dựng thì cả lũ bây giờ quá lắm là những tên buôn trầu, những thằng mót củi, làm thuê chứ đâu được ngồi sập vàng ăn mâm bạc ” [2]. Nguyễn Huệ là người điềm tĩnh, quyết đoán, từ khi mới lớn lên đã được học chữ nghĩa nho gia với thầy giáo Hiến. Bởi vậy lời nói của ông bao giờ cũng đĩnh đạc, nghiêm túc. Ngay cả khi nói những lời bông đùa, hóm hỉnh, lời nói của ông cũng không có sắc thái cợt nhã thái quá: “Vì dẹp loạn mà ra, rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười cho thí sao? Nhưng ta mới chỉ quen gái Nam hà, chưa biết con gái Bắc hà. Nay cũng nên thử xem một chuyến xem có tốt không?” [2]. Khi đứng trước An – người con gái mình yêu, chưa bao giờ Huệ dám nói chuyện tự nhiên với cô. Khác với Huệ, Lợi là người ít học, nhưng bao nhiêu năm theo biện Nhạc đi buôn nguồn khiến Lợi trở thành một kẻ lanh lợi, ranh mãnh. Lợi biết cách nói chuyện để vừa lòng mọi người. Chính ưu điểm này của anh ta đã khiến An nhiều lúc phải phân vân lựa chọn giữa Huệ và Lợi. Tác phẩm thành công ở mạch truyện thế sự. Nhiều nhân vật không có trong sử sách như An, Lãng, ông giáo Hiến… cũng trở thành những nhân vật chính của truyện. Tiếng nói của những con người đời thường này làm cho câu chuyện càng gần gũi, thân quen với người đọc thế hệ sau.

Trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly”, khoảng cách sử thi của sự kiện lịch sử và nhân vật đã được thu hẹp nhờ lớp ngôn ngữ đời thường tự nhiên, sống động. Hồ Quý Ly là một kẻ quyền biến, cả gan, dám nghĩ dám làm. Trong những lời tranh luận về chính sự, thời cuộc, ông luôn bộc lộ cá tính ngang tàng, bướng bỉnh, quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng cả những lời nói báng bổ: ” Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ ăn cắp văn mà thôi…” [5, tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành một người cha gần gũi, hiền lành. Ông nói với con bằng những lời thân mật, dịu dàng: “Anh Trừng! Đã đến lúc cha phải vào Tây Đô” [5, tr.669], “Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến.” [5, tr.828]. Những lúc một mình quỳ dưới bàn thờ của công chúa Huy Ninh, Hồ Quý Ly lại trở thành một con người khác: cô đơn, trầm lắng đến tội nghiệp. Lời người kể chuyện đan cài trong lời nhân vật làm cho hiện tại, quá khứ đan quện vào nhau càng làm rõ cái phần yếu đuối trong con người tưởng như chỉ biết có âm mưu, toan tính: “Sự dịu hiền của bà ám vào trong không gian, trên cái gối, cái chăn luôn luôn thơm tho mời đón, trên mâm cơm giản dị ngon lành tự tay bà nấu. Có bận ông ốm, bà nấu cho ông bát canh sâm cầm nóng. Ông chậm rãi nhai những mẩu hành như nhai những đốm hoa màu ngà xanh bơi trong thứ nước sóng sánh… Ông nhai chậm rãi. Ô kìa! Sao lại thế? Hành mà có vị thơm đến thế ư? Lần đầu tiên trong đời ông cảm nhận được hương thơm của một nhánh hành hoa. Có lẽ cuộc sống chính trường vội vã, hối hả và bạo liệt đã làm cho tất cả giác quan của ông bị thui chột… Và chỉ có bàn tay người đàn bà mới có thể làm thức dậy những cảm xúc tinh tế mà con người đã đánh mất…” [5, tr.569]. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có nhiều đoạn văn được diễn tả bằng những từ ngữ hiện đại: “Chúng tôi nói với nhau bằng cách nói nửa lời như vậy, nhưng tôi cảm thấy hình như chúng tôi đã hiểu nhau. Cho đến lúc chúng tôi giao hoà cùng nhau thì tôi đã hoàn toàn hiểu nàng. Nàng nói với tôi ư? Không. Nàng chẳng nói. Nhưng im lặng đã nói. Khi một người nam và một người nữ đã hoàn toàn hiểu nhau thì đó là một sự thái hoà” [5].

Với tiểu thuyết “Giàn thiêu”, nhà văn Võ Thị Hảo đã đặt cái tốt – cái xấu ở những thái cực đối lập nhau. Ngôn ngữ diễn đạt theo đó cũng được đẩy tới những giới hạn của nó. Những trang viết về tình yêu, về cái đẹp được tạo nên bởi ngôn ngữ bóng bẩy, giàu chất thơ. Cảm giác về tình yêu đam mê, đắm đuối được diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, bay bổng: “Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vòng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đá rừng rực toả hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt như lạc vào cõi phiêu bồng” [4, tr.211]. Khi trong lòng chất chứa mỗi hận thù, những dục vọng, ngôn ngữ trở nên sắc nhọn, trần trụi. Lãnh cung, nơi ghi dấu tội ác man rợ do con người tham muốn quyền lực và lòng đố kị gây ra được miêu tả đầy rùng rợn: “ở dưới đáy hầm mộ là một đàn chuột hăm he cắn nát chân tay mặt mũi nàng vừa nãy. Khi tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại trật tự răm rắp thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, chắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương”. [4, tr.229].

Tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” không còn kiểu ngôn ngữ cổ kính, quy phạm. Toàn bộ tác phẩm là thứ ngôn ngữ tự nhiên như lời nói hàng ngày. Cách nói của phương Tây du nhập và được lớp trẻ sử dụng: “Toa về đã lâu chưa? Sao chẳng đến nhà mình? Moa tưởng toa còn lâu mới về?” [6, tr.454].

Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, sinh động ngày càng chiếm ưu thế trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ này đã rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp người đọc khám phá lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó. Lịch sử không còn là vật để thờ cúng mà chính là cuộc sống sinh động, tươi nguyên.

3. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận

Tác phẩm văn học suy cho cùng là “nơi kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ” [3, tr.196] của nhà văn. Lấy đề tài lịch sử làm cảm hứng sáng tạo các nhà văn sau 1975 không chỉ dừng lại ở việc minh hoạ lại bức tranh lịch sử dân tộc như các nhà viết sử đã làm. Họ muốn mượn lịch sử làm phương tiện chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện tại. Điều này đã tạo ra hình thức ngôn ngữ mang màu sắc triết luận cho tác phẩm. Lớp ngôn ngữ này chủ yếu xuất hiện trong lời đối thoại và độc thoại nội tâm của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ trong “Sông Côn mùa lũ” thường có những cuộc đối thoại thẳng thắn với thầy giáo Hiến để tìm ra chân lý. Là học trò của ông giáo nhưng Huệ là một chàng trai trẻ mang đầy những khát vọng lớn lao. Anh thường đặt ra cho thầy những câu hỏi hóc búa như: “thế nào mới là người nghĩa hiệp?”, “thế nào là đói?”… Qua những lần trao đổi ấy đã bộc lộ những suy ngẫm của Nguyễn Huệ về cuộc đời, con người và ước mơ làm nên những cái mới tốt đẹp hơn cuộc sống trong nhãn quan của thầy Hiến. Tác phẩm có nhiều đoạn ghi lại những cảm nhận sâu sắc về chiến tranh. Phụ nữ là ngư¬ời có cảm nhận rõ nhất về sự mất mát do chiến tranh gây ra. Trong khi những ng¬ười lính rộn rã, vui mừng chuẩn bị cho những cuộc tấn công mới thì những ng¬ười đàn bà lại âm thầm đau khổ bởi họ sắp phải tiễn chồng, tiễn con đi đến chỗ chết. Có lẽ chỉ những ng-ười mang nặng đẻ đau mới cảm nhận hết nỗi đau này: “Em không phải là đàn bà, không mang nặng đẻ đau nên không thể hiểu đ¬ược tấm lòng của ng¬ười mẹ. Khổ sở nuôi con khôn lớn, rồi sắm sửa quần áo, gạo thóc, đ¬ưa nó đi, đi đâu? Đư¬a đến chỗ hòn tên mũi đạn để chết. Bao nhiêu công phu đổ xuống sông xuống biển, không đau đớn sao được!…Tự nhiên xông ra đâm chém nhau, để ruộng n¬ương lại cho đàn bà cày cấy, t¬ưới mồ hôi kiếm cơm nuôi lũ nhỏ lớn lên để tiễn chúng ra trận chuyến sau, chuyến sau nữa …” [2].

Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt và gây ám ảnh nhất đối với con ng¬ười. Ngay cả với những cuộc chiến gi¬ương cao ngọn cờ chính nghĩa, để giải phóng loài ng¬ười, ng¬ười dân luôn phải chịu đau khổ, phải hy sinh những ng¬ười chồng, ng¬ười con vô cùng yêu dấu của mình. Lẽ ra những ng-ười nh¬ư An, Thọ Hư¬ơng sẽ đư¬ợc sống thanh thản, yên ổn nh¬ưng thời cuộc đã khiến họ long đong, khốn khổ. Thọ H¬ương, ng¬ười con gái yêu của Nguyễn Nhạc cũng bị sử dụng như¬ một con bài trong ván bài chính trị của vua cha. Ng¬ười cha lạnh lùng ép gả cô cho hoàng tôn D¬ương để nhằm trấn an lòng dân. Cô gái 18 tuổi bất đắc dĩ phải trở thành vợ của một kẻ cô chư¬a hề quen biết. Cô phải sống bên một ng¬ười chồng hờ, mang tiếng là đàn bà mà ch¬ưa một lần đ¬ược làm đàn bà. Chưa đầy 20 tuổi, hoàng tôn bỏ đi, cô trở thành ngư¬ời đàn bà goá bụa. Thọ H¬ương chua chát tự nhận mình “Em chẳng khác nào viên đá lót đường cho ng¬ười ta dẫm lên trên. Thân em bị chà đạp, đau xót, lấm láp mà không ai thư¬ơng xót…” [2]. Đó dường như đã là định mệnh chung của những người phụ nữ trong thời chiến. Tác phẩm còn thể hiện những quan niệm riêng về lịch sử thông qua những từ ngữ giàu hình ảnh. Người viết sử không chỉ ghi lại những điều quan trọng, những biến cố to lớn trong lịch sử bởi “Lọc bỏ không thương tiếc các xúc động riêng tư¬, sổ toẹt những chuyện bên lề, chỉ giữ lại cái sư¬ờn biên niên của lịch sử, làm như¬ vậy có khác nào lóc bỏ hết da thịt để lịch sử chỉ còn là một mớ x¬ương xẩu ghê tởm đủ mùi tanh hôi cuốn lũ ruồi nhặng và làm cái cớ cho bọn bán thịt chuyên nghiệp vênh váo” [2].

Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” thường sống trong dòng độc thoại nội tâm. Đó chính là lúc họ đối diện với chính mình, bày tỏ những suy nghĩ thật của mình về cuộc đời và con người. Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cảm nhận cung đình là nơi đầy phức tạp và bất ổn: “Điều quan trọng mà tôi nhận ra ở cái sân khấu quyền quý, hoa lệ này, đó là sự giành giật, sự vật lộn không khoan nhượng, nó thường hằng rộng khắp, một nụ cười, một vái chào, một khoé mắt cũng phải coi chừng” [5, tr.58]. Ngoài ra nhà văn còn sử dụng nhiều câu hỏi tự vấn vừa để nhân vật tự phơi bày dòng ý thức của mình, vừa tạo điều kiện cho người đọc tự suy ngẫm, kiến giải: “Mâu thuẫn đến thế, sự giằng xé đến thế vậy mà ông lại muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn mặc đồ lụa vàng; lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong tâm tưởng, chợt nghe một tiếng ai đó thét lên : “Ngươi làm đổ cơ nghiệp nhà Trần” “Không!” “Chẳng phải tại tôi. Đó là vận nước!” “Tội lỗi do người quá nhân từ.””Sách chẳng nói chữ nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?” [5, tr.169].

Lớp ngôn ngữ triết luận trong các tiểu thuyết lịch sử sau 1975 không phải là những lời giảng giải khô cứng, khuôn mẫu. Lớp ngôn ngữ này được nhà văn sử dụng thông qua những từ ngữ giàu tính hình tượng và kết hợp nhiều hình thức linh hoạt như: đối thoại, độc thoại, câu hỏi nghi vấn… làm cho cảm hứng triết luận được bộc lộ một cách tự nhiên, hấp dẫn. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận đã giúp người viết có thể bộc lộ một cách kín đáo những suy ngẫm của mình về các vấn đề của quá khứ và hiện tại. Đồng thời lớp ngôn ngữ này cũng tạo ra những khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề.

Sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự khởi sắc cho tiểu thuyết lịch sử sau 1975. Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 gắn với nhu cầu dân chủ hoá về ngôn ngữ, về nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách quan với lịch sử. Sự đổi mới này cho thấy các nhà văn sau 1975 đã không ngừng bứt phá làm mới mình, mạnh dạn thể nghiệm những hướng đi mới. Ban đầu đã có nhiều ý kiến không thống nhất về sự thay đổi táo báo này. Nhưng thời gian đã chứng minh những thể nghiệm trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 là những nỗ lực đáng trân trọng của người viết và hứa hẹn nhiều thành công.

ThS. Ngô Thị Quỳnh Nga ( hoinhavanvietnam.vn)
______________________________________________________

Tài liệu tham khảo:
1. Trương Đăng Dung, Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của Lucacs, Tạp chí văn học, số 5, 1994.
2. Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, http//:dactrung.net
3. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.
4. Võ Thị Hảo, Giàn thiêu, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2003.
5. Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2002.
6. Nguyễn Xuân Khánh, Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2006.

____________________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ nghệ thuật | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Ngôn ngữ học đại cương và ngôn ngữ học cụ thể

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 16, 2010

Lê Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)
___________________________________________________

Ngôn ngữ loài người là một tập hợp các ngôn ngữ cụ thể vô cùng đa dạng. Theo thống kê thì trên thế giới hiện có khoảng trên dưới 5000 ngôn ngữ còn đang được sử dụng (sinh ngữ). Con số này có thể xê dịch ít nhiều, tùy thuộc vào tiêu chí xác định một ngôn ngữ để đưa vào bảng thống kê. Nhưng dù sao thì số lượng ngôn ngữ trên thế giới nói chung là rất lớn. Mỗi một ngôn ngữ trên thế giới đều có những nét đặc trưng riêng, thể hiện không chỉ ở cách gọi tên sự vật hay hiện tượng trong thực tế khách quan mà còn ở cách khai thác, kết hợp, sắp xếp các âm thành từ, các từ thành câu, v.v… Chẳng hạn, trong tiếng Việt, âm [p] không được sử dụng làm âm đầu của âm tiết (trừ những từ nhập của tiếng nước ngoài, như “pêđan” hay “pin”), trong khi đó thì nhiều ngôn ngữ khác lại sử dụng nó làm phụ âm đầu [ví dụ: papa (bố), pero (cái bút, ngòi bút) trong tiếng Nga; pen (cái bút), pity (lòng thương hại) trong tiếng Anh; pomme (táo), partie (đảng) trong tiếng Pháp]. Về phương diện ngữ pháp, trong tiếng Việt, khi kết hợp các từ thành câu, dạng thức của từ không thay đổi và nghĩa của câu phụ thuộc vào trật tự của các từ, trong khi đó thì ở các ngôn ngữ biến hình, như tiếng Nga chẳng hạn, trật tự của các từ tương đối tự do, bởi vì ý nghĩa của câu nói không phụ thuộc nhiều vào vị trí của các từ mà do hình thức của từ quyết định: hình thức của từ nói rõ chức năng ngữ pháp của chúng trong câu và căn cứ vào đó người ta xác định ý nghĩa của câu. Chẳng hạn, trong câu sau của tiếng Việt: “Mẹ yêu con” thì “mẹ” là chủ thể của hoạt động “yêu”, còn “con” là khách thể (đối tượng) của hoạt động ấy. Nếu ta đảo trật tự của các từ của câu đó thành “Con yêu mẹ” thì ý nghĩa của câu nói sẽ khác hẳn: “con” bây giờ trở thành chủ thể của hoạt động “yêu”, còn “mẹ” lại trở thành khách thể của hoạt động đó. Trong khi đó câu tiếng Nga: “Ja chitaju knigu” (tôi đọc sách) có thể có những cách cấu tạo khác nhau mà ý nghĩa cơ bản của nó không thay đổi. Đó là do trật tự của các từ cấu tạo nên câu tiếng Nga tương đối tự do. Với cùng ý nghĩa ấy, ta có thể nói: “Ja chitaju knigu” hay “Knigu chitaju ja”. Vấn đề là ở chỗ: dù nói theo cách nào thì chủ thể của hoạt động “đọc” vẫn là “tôi”, còn đối tượng của hoạt động bao giờ cũng là “quyển sách”. Đó là vì dạng thức của các từ “ja”, “chitaju” và “knigu” đã nói rõ chức năng ngữ pháp của chúng trong câu (“ja” là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít ở nguyên cách chỉ có thể là chủ ngữ, “chitaju” là động từ ở ngôi thứ nhất số ít thời hiện tại chỉ cú thể phụ thuộc vào “ja”, còn “knigu” là danh từ giống cái số ít ở đối cách phải là đối tượng của hành động).

Tuy nhiên, trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới, người ta đều có thể rút ra những cái chung gọi là những phổ niệm ngôn ngữ. Thực vậy, chẳng hạn, chúng ta thấy rằng trong tất cả các ngôn ngữ thế giới đều có các phụ âm và nguyên âm, không có ngôn ngữ nào chỉ sử dụng toàn phụ âm hay toàn nguyên âm, hoặc trong tất cả các ngôn ngữ đều có từ loại (danh từ, động từ, tính từ…), hoặc trong tất cả các ngôn ngữ đều có hiện tượng nhiều nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa,v. v…

Chính vì vậy, ngôn ngữ học có thể lấy làm đối tượng nghiên cứu của mình hoặc là hiện thực ngôn ngữ của một ngôn ngữ cụ thể hoặc là tập hợp các tri thức về các ngôn ngữ khác nhau của loài người. Ngôn ngữ học nghiên cứu về một ngôn ngữ nào đó để xác định hệ thống của chính ngôn ngữ đó, gọi là ngôn ngữ học cụ thể. Trái lại, ngôn ngữ học nghiên cứu tập hợp các tri thức về ngôn ngữ loài người nói chung, nhằm xác định các phổ niệm ngôn ngữ và trên cơ sở đó xây dựng lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ, gọi là ngôn ngữ học đại cương.

Với tư cách là ngành khoa học về ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ học đại cương khai thác các kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học cụ thể, qua một khâu trung gian là khâu so sánh các ngôn ngữ với nhau. Việc so sánh các ngôn ngữ do ngôn ngữ học so sánh đảm nhiệm. Qua các công trình nghiên cứu so sánh các ngôn ngữ cụ thể với nhau, ngôn ngữ học đại cương sẽ rút ra những phổ niệm ngôn ngữ và có thể đề ra lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ, phục vụ cho việc nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể một cách hiệu quả hơn. Ngoài ra, ngôn ngữ học đại cương còn có nhiệm vụ giải đáp một số vấn đề gọi là triết học ngôn ngữ, chẳng hạn như vấn đề bản chất của ngôn ngữ là gì, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu khác như thế nào, quan hệ giữa ngôn ngữ và các hiện tượng xã hội, quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ra sao, .v.v…

_____________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học đại cương, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »