TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Archive for the ‘Đối chiếu ngữ âm-âm vị’ Category

Đối chiếu các phụ âm

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 9, 2010

Lê Đình Tư

Quy trình đối chiếu các phụ âm của hai ngôn ngữ cũng gồm ba bước:

1/ Xác định hệ thống phụ âm của hai ngôn ngữ trên cơ sở một phương pháp miêu tả nhất quán và trên cơ sở đó các định những phụ âm tương đương và những âm vị không tương đương trong hai ngôn ngữ;

2/ Xác định các biến thể của các phụ âm và tìm những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai ngôn ngữ;

3/Đối chiếu khả năng phân bố của các phụ âm và sự biến đổi của chúng trong bối cảnh ngữ âm.

Để thực hiện những bước này, cần nắm vững những vấn đề sau đây:

1. Cách miêu tả phụ âm theo đặc điểm cấu âm

Xét về đặc điểm cấu âm, các phụ âm được miêu tả theo ba tiêu chí cơ bản:

– Tiêu chí 1: Theo phương thức cấu âm.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt:
* phụ âm tắc , ví dụ: [t], [d], [k], [b]
* phụ âm xát, ví dụ: [f], [v], [s], [z], [l]
* phụ âm tắc-xát, ví dụ: [ts], [dz], [t∫] , và
* phụ âm rung: [r] hoặc [R].

– Tiêu chí 2: Theo vị trí cấu âm
Theo vị trí cấu âm, ta phân biệt những phụ âm cơ bản sau:
* phụ âm môi, trong đó lại phân biệt phụ âm hai môi (ví dụ: [b], [p], [m]), và phụ âm môi-răng (ví dụ: [v], [f]).
* phụ âm đầu lưỡi-răng trên: [t], [n]
* phụ âm đầu lưỡi-răng dưới: [s], [z].
* phụ âm đầu lưỡi-lợi: [l] [d] (ở tiếng Việt)
* phụ âm đầu lưỡi-ngạc cứng: [ş], [ʐ]
* phụ âm mặt lưỡi-ngạc: [c], [ɲ], mặt lưỡi quặt: [ţ] (tiếng Việt)
* phụ âm gốc lưỡi-ngạc mềm: [k], [g], [ŋ]
* phụ âm họng: [h], [x]

– Tiêu chí 3: Theo tính thanh.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt:
* Phụ âm hữu thanh, ví dụ: [b], [d], [g]…
* Phụ âm vô thanh, ví dụ: [p], [t], [k]…

2. Những điểm cần lưu ý khi đối chiếu các phụ âm

– Phụ âm bật hơi : Có ngôn ngữ có phụ âm bật hơi nhưng có những ngôn ngữ không có phụ âm này. Mặt khác, đặc điểm của các phụ âm bật hơi giữa các ngôn ngữ cũng có thể khác nhau. Ví dụ: Tiếng Việt có phụ âm bật hơi [ť] nhưng cách thể hiện của nó không giống với phụ âm bật hơi tương ứng trong tiếng Anh. Đây là những phụ âm có thể gây nên các lỗi giao thoa.

– Phụ âm mạc hóa: Cũng là những phụ âm có thể gây khó khăn cho việc học ngoại ngữ. Đối với nhiều người, các phụ âm mạc hóa thường không được nhận biết một cách chính xác, do đó thường được phát âm gần với một phụ âm nào đó của tiếng mẹ đẻ. Ví dụ: Phụ âm [ł] trong tiếng Anh thường được người Việt nhận biết là [u] và do đó thường phát âm sai.

– Phụ âm gần đúng: Là những phụ âm có cách phát âm vừa có những điểm tương đồng vừa có những điểm hơi khác biệt với những phụ âm đúng tương ứng. Đây là những phụ âm rất dễ bị người học ngoại ngữ đồng nhất với các phụ âm đúng. Ví dụ: [r] trong tiếng Anh hay phụ âm [ɤ] của tiếng Việt là những phụ âm gần đúng.

3. Sự phân bố của phụ âm

– Sự phân bố các phụ âm liên quan đến những đơn vị lớn hơn, tức là âm tiết. Do vậy, trước khi đối chiếu về sự phân bố các phụ âm trong hai ngôn ngữ, cần phải đối chiếu cấu trúc âm tiết của chúng. Các bản miêu tả cấu trúc âm tiết cần phải chỉ ra được hệ thống phụ âm đầu và phụ âm cuối của các âm tiết trong ngôn ngữ. Ví dụ: Trong tiếng Việt, có những phụ âm xuất hiện trong hệ thống phụ âm đầu nhưng không xuất hiện trong hệ thống các phụ âm cuối, như: /s/; / z/; /f/, hoặc ngược lại, như /p/.

– Vị trí phân bố của phụ âm trong thường kéo theo sự biến đổi ngữ âm do có các hiện tượng đồng hóa hay thích nghi ngữ âm của các âm tố. Các Hiện tượng đồng hóa hay thích nghi ngữ âm có thể không giống nhau trong các ngôn ngữ do đó có thể là nguyên nhân dẫn đến việc phạm lỗi khi học ngoại ngữ. Ví dụ: Hiện tượng vô thanh hóa các phụ âm hữu thanh ở vị trí âm cuối của từ hoặc sau phụ âm vô thanh trong tiếng Nga hoặc Ba Lan, hay hiện tượng môi hóa các phụ âm cuối của âm tiết tiếng Việt như ‘học’, ‘chung’, ‘ông’ rất dễ bị người học thể hiện sai.

– Khi đối chiếu các phụ âm về mặt phân bố, cần phải phân biệt những biến thể âm vị mang tính bắt buộc và những biến thể mang tính tự do. Trong việc học ngoại ngữ, các biến thể bắt buộc (gọi là biến thể kết hợp) có giá trị trong việc rèn luyện kỹ năng nói và nghe còn các biến thể tự do có giá trị trong việc rèn luyện kĩ năng nghe. Ví dụ: Biến thể “ngậm” của âm vị /t/ ở vị trí cuối âm tiết (ví dụ: tất) hay biến thể môi hóa (ví dụ: tôi) trong tiếng Việt đều phải được thể hiện chính xác, trong khi đó biến thể bật hơi [t’] ở vị trí đầu âm tiết chỉ là biến thể do một số cá nhân thể hiện (có thể do ảnh hưởng của tiếng Anh hoặc theo thói quen cá nhân).

– Các phụ âm nói riêng và âm vị nói chung còn chịu ảnh hưởng của các hiện tượng ngôn điệu là trọng âm, thanh điệu, ngữ điệu, nên việc đối chiếu các hiện tượng ngôn điệu trong hai ngôn ngữ cũng cần được đặt ra, nhất là đối với những ngôn ngữ có cùng những hiện tượng ngôn điệu.

___________________________________________________________

Posted in 1, Ngôn ngữ học đối chiếu, Đối chiếu ngữ âm-âm vị | Thẻ: , , , , , | Leave a Comment »

Đối chiếu các nguyên âm

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 7, 2010

Lê Đình Tư

1. Hình thang nguyên âm quốc tế

Hình thang nguyên âm quốc tế cho ta biết các tiêu chí để phân biệt các nguyên âm:

– Tiêu chí 1: Theo độ mở của miệng.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: rộng – hơi rộng – hơi hẹp – hẹp. Các ngôn ngữ có thể phân biệt chi tiết hơn.

– Tiêu chí 2: Theo chiều hướng của lưỡi.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: hàng trước – hàng giữa – hàng sau. Có thể có sự phân biệt cụ thể hơn như giữa-trước, giữa-sau hay gần trước, gần sau.

– Tiêu chí 3: Theo hình dáng môi.
Theo tiêu chí này, ta phân biệt các nguyên âm: tròn – không tròn.

Ngoài ra, các nguyên âm còn phân biệt với nhau theo trường độ: nguyên âm dài – nguyên âm ngắn, và tính mũi: nguyên âm mũi – nguyên âm không mũi.

Nguyên âm trong các ngôn ngữ khác nhau hay giống nhau là căn cứ vào những đặc điểm mô tả nói trên.

2. Nguyên âm cố định âm sắc và biến đổi âm sắc

– Các nguyên âm cố định âm sắc gọi là nguyên âm đơn. Các nguyên âm như [a], [i] là những nguyên âm đơn.

– Các nguyên âm biến đổi âm sắc gọi là nguyên âm đôi và nguyên âm ba. Các nguyên âm [ie], [uo] trong tiếng Việt là những nguyên âm đôi, các nguyên âm [eiə] (ví dụ: layer, player), [auə] (ví dụ: power, hour) của tiếng Anh là những nguyên âm ba.

Việc phân biệt các nguyên âm đôi/nguyên ba thường gặp khó khăn nên các bản miêu tả ngữ âm – âm vị của các ngôn ngữ có thể không giống nhau, phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà nghiên cứu.

Do vậy, khi đối chiếu loại nguyên âm này, người đối chiếu cần lí giải về việc lựa chọn phương pháp miêu tả làm cơ sở cho việc đối chiếu.

3. Nguyên âm và chữ viết

Khi đối chiếu các nguyên âm của hai ngôn ngữ, ta có thể đối chiếu sự thể hiện của nguyên âm trên chữ viết. Tuy các ngôn ngữ có thể cùng dùng một loại văn tự để ghi âm nhưng do lịch sử ra đời và lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học của các ngôn ngữ có khác nhau nên việc dùng chữ viết để thể hiện các nguyên âm có thể khác nhau. Đối chiếu âm và chữ viết có thể tìm ra những chỗ bất hợp lí và những khó khăn của người học khi học phát âm và học viết bằng ngoại ngữ. Ví dụ: Tiếng Việt ghi nguyên âm [Ɛ] bằng hai con chữ là e và a (ví dụ: em/ anh).

Trên đây chỉ nói về việc đối chiếu các nguyên âm theo đặc trưng cấu âm-âm học. Đây là kiểu đối chiếu truyền thống. Ngày nay, nhờ những thiết bị ghi âm, phổ kí hiện đại, người ta còn có thể đối chiếu các nguyên âm theo những đặc trưng âm học được ghi lại bằng nhiều phương pháp khác nhau, gọi chung là đối chiếu ngữ âm thực nghiệm. Tuy nhiên, xét dưới góc độ học tập và giảng dạy ngoại ngữ trong những điều kiện hiện nay, kiểu đối chiếu này chưa mang lại nhiều lợi ích thực tiễn.

_______________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học đối chiếu, Đối chiếu ngữ âm-âm vị | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

ĐỐI CHIẾU CẤP ĐỘ NGỮ ÂM – ÂM VỊ

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 6, 2010

LÊ ĐÌNH TƯ

I. Cơ sở đối chiếu ngữ âm-âm vị

1. Bộ máy cấu âm

– Các âm tố do bộ máy phát âm của con người cấu tạo nên. Bộ máy phát âm của con người đều giống nhau ở tất cả những người bình thường trên thế giới. Các âm tố được phát ra nhờ vào sự hoạt động và phối hợp của các cơ quan cấu âm. Những cơ quan cấu âm chủ yếu là:
môi, răng, lợi, mũi, lưỡi, lưỡi con, ngạc cứng, ngạc mềm, họng, dây thanh (thanh quản).

– Việc cấu tạo các âm tố trong các ngôn ngữ đều do các cơ quan cấu âm nói trên thực hiện theo những cách thức giống nhau hoặc khác nhau và đó chính là cơ sở cho việc đối chiếu các âm tố trong các ngôn ngữ.

2. Âm tố, âm vị và biến thể âm vị

– Âm tố là đơn vị nhỏ nhất của âm thanh lời nói. Âm tố chỉ là một đơn vị phát âm tự nhiên của con người. Nếu được hướng dẫn và với bộ máy cấu âm bình thường, con người có thể phát âm được tất cả các âm tố có thể có trong các ngôn ngữ.

– Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ chỉ sử dụng một số loại âm tố nhất định để tạo ra các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn (từ, câu..). Đó chính là các âm vị. Âm vị là đơn vị ngữ nhỏ nhất của ngôn ngữ. Số lượng các âm vị trong các ngôn ngữ có thể giống nhau hoặc khác nhau. Ví dụ: Tiếng Việt không có âm vị [ð], tiếng Anh không có âm vị [ǎ].

– Âm vị là đơn vị trừu tượng nên luôn luôn được thể hiện ra bằng những âm tố cụ thể. Khi thể hiện âm vị bằng các âm tố, âm vị có thể được bổ sung thêm những đặc điểm của cá nhân người nói hoặc do vị trí của âm vị trong ngữ cảnh mang lại. Khi ấy, từ một âm vị ta có thể có rất nhiều âm tố với những đặc trưng không quan trọng khác. Ví dụ: khi phát âm từ ‘tô’ thì âm [t] đã được phát âm với đặc điểm tròn môi. Ta gọi những âm khác nhau nhưng thể hiện cùng một âm vị như vậy là những biến thể âm vị.

3. Âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính

– Âm vị đoạn tính là những âm vị được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo thời gian. Nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm/bán phụ âm là những âm vị đoạn tính.

– Âm vị siêu đoạn tính là những âm vị không được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo thời gian mà luôn luôn được thể hiện đồng thời với âm tố hoặc toàn bộ âm tiết. Trọng âm và thanh điệu là những âm vị siêu đoạn tính.
(còn nữa)
_________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học đối chiếu, Đối chiếu ngữ âm-âm vị | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »