TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Archive for Tháng Năm, 2010

Câu phức hợp (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 28, 2010

3.2.2. Câu phụ vị ngữ

Đây là loại câu phức phụ thuộc, trong đó mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa cho vị ngữ của mệnh đề chính. Giống như đối với trường hợp câu phụ chủ ngữ, ở đây cũng có thể có hai khả năng:

– Vị ngữ của mệnh đề chính là một từ dùng để danh từ hóa kết cấu chủ-vị. Đó là vị ngữ hình thức của mệnh đề chính. Ví dụ:

Nỗi buồn lớn nhất đối với ông vẫn là việc ông chưa có con trai.
C – V (C – V)

– Vị ngữ của mệnh đề chính có cấu tạo là một kết cấu chủ-vị. Nói chung, mệnh đề phụ vị ngữ thường được dùng để thay thế cho vị ngữ danh từ hoặc vị ngữ tính từ. Ví dụ:

1) Chị ấy là người đã từng làm siêu lòng bao nhiêu chàng trai.
C – V (C – V)
2) Tôi im lặng là tôi có tội đấy, anh bạn ạ! (Phạm Ngọc Chiểu)
C (C- V) – V (C-V)

3.2.3. Câu phụ bổ ngữ

Câu phụ bổ ngữ là loại câu phức phụ thuộc, trong đó mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa hoặc thay thế cho bổ ngữ của mệnh đề chính. Có hai kiểu câu phụ bổ ngữ:

Câu phụ bổ ngữ không dùng kết từ. Ví dụ:

Tôi không thích anh nhìn tôi như lúc này.
C – V – B(C – V)

Câu phụ bổ ngữ dùng kết từ (liên từ phụ thuộc). Ví dụ:

Tôi đã nói tôi không biết gì cả.
C – V – (là) – B(C – V)

3.2.4. Câu phụ định ngữ
Câu phụ định ngữ là loại câu phức phụ thuộc, trong đó mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa hoặc thay thế cho định ngữ của mệnh đề chính. Có hai kiểu câu phụ định ngữ:

Câu phụ định ngữ không dùng kết từ. Ví dụ:

Đây là quyển sách anh Hoàng mới tặng tôi.
C – V – Đ(C – V)

Câu phụ bổ ngữ dùng kết từ (liên từ phụ thuộc). Ví dụ:

Hay cô không bằng lòng lấy người bà đã chọn cho cô?
C – V – B – (mà) – Đ(C – V)

3.2.5. Câu phụ trạng ngữ

Câu phụ trạng ngữ là loại câu phức phụ thuộc, trong đó mệnh đề phụ được dùng để bổ nghĩa hoặc thay thế cho trạng ngữ của mệnh đề chính. Trong tất cả các loại câu phức phụ thuộc thì đây là loại câu có nhiều biểu hiện cụ thể nhất. Sau đây là một số ví dụ về câu phụ trạng ngữ:

Câu phụ trạng ngữ thời gian. Ví dụ:
Nó cứ gào thét cho đến cổ bị khản đặc
C – V – Tr (C – V)

Câu phụ trạng ngữ địa điểm. Ví dụ:
Sự thay đổi thể hiện ở việc mọi người sống với nhau thật hơn.
C – V – Tr (C – V)

Câu phụ trạng ngữ mức độ. Ví dụ:
Tiếng chó sủa râm ran đến nỗi tôi không tài nào nhắm mắt được.
C – V – Tr (C – V)

Câu phụ trạng ngữ mục đích. Ví dụ:
Bà sư mua đứa con gái về nuôi để sau nó hầu hạ, đỡ đần trong chùa.
C – V – B – Tr (C – V)

Câu phụ trạng ngữ điều kiện. Ví dụ:
Ở đâu tôi cũng sống được, miễn là trời cho tôi sức khỏe.
C – V – Tr (C – V)

Câu phụ trạng ngữ so sánh. Ví dụ:
Dáng núi trông tựa như một con voi nằm phủ phục.
C – V – Tr (C – V)

________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Ai “bức tử” chữ Hán – Nôm?

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 25, 2010

Vũ Thế khôi

Trên tạp chí Hồn Việt, số 18 tháng 12 – 2008, có đăng bài của hai tác giả Mai Bá Triều – Phạm Thị Tuyết Anh, nhan đề “Sự bức tử chữ Hán – Nôm”. Các tác giả cho rằng: “Dân tộc Việt Nam không hề tự từ bỏ chữ viết Hán – Nôm truyền thống của mình” và quy tội “bức tử cữ Hán – Nôm” cho chính quyền thực dân Pháp … “bằng những thông cáo và sau cùng là “Quy chế chung của Bộ giáo dục Pháp quốc – Bản xứ” chữ viết Hán – Nôm đã bị xoá bỏ hoàn toàn, để thay vào đó là chữ viết Việt – La tinh (hay còn gọi là quốc ngữ)” (tr. 13).

Người ta thường nói: lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”, nên chỉ là vô bổ những giả định kiểu: nếu như các cụ ta lấy nguyên chữ Hán mà đọc theo âm Việt để biểu thị từ ngữ Việt chứ không sáng chế ra cái chữ Nôm rắc rối, hoặc vay muợn chữ viết La-tinh, thì giờ đây hay biết mấy, sẽ không có vấn nạn “đứt đoạn với văn hoá cổ truyền” v.v. và v.v… Việc có ích hơn sẽ là khách quan nhìn nhận lại vấn đề để ngày nay trong công cuộc cải cách giáo dục và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có cách ứng xử đúng mực đối với chữ Hán và di sản Hán Nôm của tổ tiên.

Hai tác giả viết rằng họ “đã cố gắng sưu tầm và nghiên cứu đề tài này, những mong hé mở một tia sáng công lý về “vụ án diệt ngữ” bằng một số tư liệu … tìm được”. Nhưng trong bài viết, chỉ thấy họ nhắc lướt qua “những thông cáo và “Quy chế chung” mà theo họ đã “bức tử” chữ Hán, còn thì dành nhiều chỗ để trích dẫn lời mấy vị quan Tây có thái độ tôn trọng nền văn hiến bằng chữ Hán của An Nam. Vậy nên chúng tôi cũng xin dựa vào những văn bản để khẳng định rằng: riêng trong vấn đề chữ viết chính thống của nước ta thì lịch sử đã có 2 lần lựa chọn phù hợp nhu cầu khách quan rồi. Từ chỗ tẩy chay chữ Hán, dần dần dân tộc ta đã chuyển sang tự nguyện chấp nhận chữ Hán vì nhu cầu sống còn là giành độc lập và trong ngót nghìn năm, chữ Hán đã trở thành chữ “Quốc ngữ” (xin lưu ý: chữ chứ không phải tiếng!) đầu tiên, phương tiện đắc lực trong sự nghiệp xây dựng nền tự chủ của quốc gia Đại Việt . Mười thế kỷ sau, đầu thế kỷ XX, cũng chính vì nhu cầu sống còn là “khai dân trí” và “chấn dân khí” tức làm một cuộc “cách mạng tân văn hoá” (Hoàng Xuân Hãn) để tiến tới cứu nước, khôi phục nền độc lập mà dân tộc ta lại tự nguyện ̣̣̣chấp nhận chuyển chức năng chữ viết phổ thông từ chữ Hán – Nôm sang chữ Quốc ngữ (La-tinh hoá), đồng thời vẫn cố gắng bảo tồn chữ Hán – Nôm như một cơ sở xây dựng quốc học và nền văn hoá dân tộc. Đó là cả một quá trình thay đổi nhận thức dưới tác động của những nhân tố lịch sử. Quá trình ấy đã diễn ra như sau.

Người Pháp vì lợi ích của họ tất yếu ngay từ đầu đã chủ trương xoá bỏ chữ Hán – Nôm, thay thế nó bằng Pháp ngữ và chữ Quốc ngữ đồng nhất với Pháp ngữ về chữ viết (tức cùng sử dụng bảng chữ cái La-tinh). Năm 1861, chưa chiếm xong Lục tỉnh (Nam Kỳ), thực dân Pháp đã lập trường Thông ngôn Bá – Đá – Lộc, chỉ dạy Pháp ngữ và chữ quốc ngữ, bỏ hẳn chữ Hán. Chiếm xong Nam kỳ, năm 1867 chúng bãi bỏ luôn ở đó thi cử chữ Hán. Một số người Việt thức thời như các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký … đã ra sức truyền bá chữ Quốc ngữ, ra báo, làm sách, trên thực tế đã biến chữ Quốc ngữ, song hành cùng tiếng Pháp, thành một phương tiện trong sinh hoạt chính trị – văn hoá thường ngày ở “xứ Nam Kỳ tự trị”, nơi Nho học phát triển chưa được hai trăm năm. Nhưng công cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp do sĩ phu Nho học lãnh đạo bùng nổ và rồi diễn ra quyết liệt cho đến tận cuối thế kỷ, các thầy đồ và dân chúng khi ấy đều nhận thức rõ rằng cả Pháp ngữ lẫn Quốc ngữ đều là công cụ của kẻ xâm lược nên kiên quyết tẩy chay thứ “chữ loằng ngoằng như giun bò”, mặc dù, để mua chuộc, người Pháp bồi dưỡng 200fr. /năm cho những thầy đồ đồng ý dạy thêm chữ Quốc ngữ và cấp học phí cho sĩ tử tình nguyện học! Việc tẩy chay chữ Quốc ngữ lúc ấy diễn ra vẫn theo truyền thống xưa của dân tộc ta mà thôi: thời Bắc thuộc dân ta từng kiên trì tẩy chay chữ Hán khi nó còn là công cụ đồng hoá của ngoại bang, nên nó chỉ quẩn quanh nơi thị thành giữa bọn ngoại xâm và số người cộng tác với chúng, chứ không thể vượt qua luỹ tre đến với đông đảo dân chúng trong các làng Việt[1].

Bởi thế, sau khi chiếm xong toàn bộ nước ta và thiết lập được chế độ bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam sau Hiệp ước Patenôtre 1884, những viên quan cai trị người Pháp (như Paul Bert, chẳng hạn, người rất ủng hộ G. Dumoutier trong ý định duy trì giáo dục Nho học … “để có lợi cho chúng ta” – chính Dumoutier bộc lộ[2]) tỏ ra tỉnh táo hơn, đã phải cho dạy chữ Nho song song với Quốc ngữ và tiếng Pháp, tạo điều kiện cho các Toàn quyền Paul Doumer (1987 – 1902) và đặc biệt là Paul Beau (1902 – 1908) thực hiện chính sách “chinh phục bằng giáo dục”, như chư vị thực dân khôn ngoan này phát biểu. Năm 1906 Nha học chính Đông Dương, Hội đồng cải lương học vụ cho người bản xứ (trong thành viên có cả một số vị đại thần người Việt ), được thiết lập bởi những nghị định của toàn quyền Paul Beau, đã đưa ra chương trình cải cách giáo dục. Ngay đến thời điểm ấy, người Pháp, “bằng những văn kiện, tài liệu chính thức, có giá trị pháp lý, do những vị toàn quyền hoặc những quan chức cao cấp trong bộ máy cai trị của chính quyền thực dân Pháp, ban hành và ký tên” (như những lời “buộc tội” của hai tác giả) vẫn không dám “bức tử” chữ Hán! Ngược lại, vì chính sách “chinh phục bằng giáo dục”, họ vẫn chủ trương đảm bảo tư cách bình đẳng, chí ít là trong văn bản chính thức (trên thực tế thì không hẳn như vậy), cho cả ba: tiếng Pháp, chữ Hán và Quốc ngữ. Chứng cớ là trong chương trình cải cách, chữ Nho vẫn song hành cùng tiếng Pháp và Quốc ngữ; tốt nghiệp trung học theo chương trình này được quyền dự thi Hương, với 4 kỳ thi: 1) bằng chữ Nho, với 5 đầu bài khác nhau, trong đó có văn sách; 2) một bài thi bằng Quốc ngữ; 3) bài dịch Pháp – Việt và bài dịch Nho – Pháp; 4) kỳ phúc hạch để chọn cử nhân / tú tài gồm: bài luận chữ Nho, bài viết chữ Quốc ngữ và bài dịch Pháp – Nho (theo: Lịch sử Giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 – 1945, do Nguyễn Đăng Tiến chủ biên, nxb Giáo dục, 1996).

Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử bước sang đầu thế kỷ XX căn bản đã thay đổi. Thực dân Pháp đã bình định xong cả nước ta. Tiếng súng quyết chiến ở núi rừng Yên Thế còn vang vọng đấy, nhưng Phan Chu Trinh sau khi liều mạng lẻn vào tận đồn Phồn Xương năm 1906 để tiếp xúc với Đề Thám, trở về thất vọng nói với các đồng chí: “Ông Thám là một võ tướng mà thôi!”, tức ông đã thấy trước 6 năm là tiếng súng Khởi nghĩa Yên Thế rồi cũng sẽ tắt lịm vào năm 1913. Sau gần nửa thế kỷ (kể từ ngày pháo hạm Pháp nổ súng tấn công Sơn Trà – Đà Nẵng) cuộc kháng chiến vũ trang vô cùng anh dũng chống quân xâm lược, các sĩ phu đất Việt đã ngộ ra rằng: ta thất bại trong công cuộc giữ nước chính là vì thua giặc cả một thời đại về văn minh, kẻ thù té ra không như ta, quen thói hợm mình “văn hiến chi bang”, gọi là “bọn man di mắt xanh mũi lõ”, mà hơn hẳn ta cả trăm năm về trình độ phát triển, về văn minh. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra trước tầng lớp sĩ phu, lúc ấy còn đang lãnh trách nhiệm lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, là làm “cách mạng tân văn hoá”, canh tân đất nước, thông qua gấp rút tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật văn minh Tây phương mà đưa cái đầu của dân mình lên ngang tầm kẻ thù để chiến đấu với chúng trên một mặt bằng văn hoá.

Bằng phương tiện nào? Không thể trực tiếp bằng tiếng Pháp, bởi vì cái thứ tiếng Pháp bồi dăm-bẩy tháng chỉ có thể giúp cho cái sự vinh thân phì gia, “sáng rượu sâm-banh, tối sữa bò”, còn muốn nắm vững đến trình độ tiếp thu được tư tưởng tiên tiến và tri thức văn minh, tối thiểu cũng cần phải học dăm năm! Cũng không thể bằng chữ Hán đòi hỏi hàng chục năm đèn sách mới mong đọc thông viết thạo được. Chỉ còn phương tiện Quốc ngữ La-tinh hoá, có thể nắm vững chỉ sau dăm – ba tháng, là đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của cuộc “cách mạng tân văn hoá” phải tiến hành ngay lúc ấy để tiếp tục dương ngọn cờ cứu nước. Bởi vậy chính các nhà Nho từng tẩy chay nó nửa thế kỷ trước như công cụ của bọn xâm lược, thì nay giác ngộ nhu cầu lịch sử ấy, từ năm 1903, tức đi trước chương trình cải lương của chính quyền Bảo hộ 3 năm, đã phát động cả một “cuộc cách mạng tân văn hoá”, mà linh hồn chính là chữ Quốc ngữ: “Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước / Phải đem ra tính trước dân ta” – chính các ông Nghè, ông Cử Nho học bây giờ khẳng định như vậy. Văn minh tân học sách (1904), tác phẩm được coi là “cương lĩnh” của phong trào Duy tân – Nghĩa thục 1903 – 1908, nêu việc dùng chữ Quốc ngữ thành “đường” thứ nhất trong 6 “đường” khai thông dân trí nhằm mục tiêu duy tân để cứu nước[3]. Chính nhờ triết lý giáo dục khai dân trí, chấn dân khí, mang tính cách mạng thực sự, mà chữ quốc ngữ từ đó, lần đầu tiên từ khi ra đời, bắt đầu gắn liền với truyền thống yêu nước, với tinh thần dân tộc và những tư tưởng mới – dân quyền, dân chủ và tri thức văn minh, khoa học của thời đại. Và cũng chính nhờ vậy mà các nhà Nho, từng thành đạt ngay trong nền khoa cử Nho học, những ông Nghè, ông Cử, ông Tú… trong có 5 năm đã làm được điều mà nhà cầm quyền thực dân không làm nổi trong ngót nửa thế kỷ kể từ khi bắt đầu xâm lăng đất Việt, đó là: làm một cuộc cách mạng trong nhận thức và tâm lý của sĩ phu và dân chúng đối với chữ Quốc ngữ La-tinh hoá, tức khách quan đã chuẩn bị cơ sở tư tưởng cho việc thay đổi chữ viết chính thống của nước ta và phế bỏ nền khoa cử Tống Nho hủ lậu bằng chữ Hán từ lâu đã hết tác dụng khai hoá và đã trở thành vật cản trên con đường tiến hoá của nước nhà.

Xin nhấn mạnh lại: các trí thức Nho học Duy tân đấu tranh đòi phế bỏ nền khoa cử bằng chữ Hán và yêu cầu dùng chữ Quốc ngữ làm chuyển ngữ phổ cập giáo dục nhằm khai dân trí, chấn dân khí để cứu nước chứ không hề chủ trương phế bỏ chữ Hán. Chứng cớ rành rành: Đông Kinh nghĩa thục và các trường “Tân học” khác đều tiếp tục dạy chữ Hán (miến phí, trong khi muốn theo học chữ Pháp phải đóng học phí!). Câu nói của cụ Phan Chu Trinh: “Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc” (không phế bỏ chữ Hán, không thể cứu được nước Nam) là lời bột phát trong lúc tranh luận, về sau chính cụ Tây Hồ đã rút lại[4]. 11 năm sau khi Đông Kinh nghĩa thục bị nhà cầm quyền thực dân đóng cửa, năm 1919 Dương Bá Trạc, một trong 2 tân cử nhân Hán học trẻ tuổi đã diễn thuyết tại Đền Ngọc Sơn ngày Rằm tháng Giêng năm 1907 để cổ động duy tân theo gương Nhật Bản và chuẩn bị dư luận cho việc khai giảng Đông Kinh nghĩa thục, còn viết bài trên báo Nam Phong khẳng định phải tiếp tục dạy và học chữ Hán bởi hai lẽ: một là để làm giầu tiếng Việt, hai là để bảo tồn văn hoá dân tộc. Chính là vì vấp phải quyết tâm bảo tồn chữ Hán của giới trí thức Duy tân mà chính quyền Bảo hộ Pháp, tuy “thừa gió bẻ măng”, năm 1915 bắt đầu phế bỏ trên thực tế nền khoa cử bằng chữ Hán ở Bắc Kỳ (năm 1919 cả ở Trung Kỳ), và ngày 21 – 12 – 1917 cùng Nam triều ban hành văn bản đương thời gọi là “Học chính tổng quy”, tức “Quy chế chung về giáo dục ở Đông Dương” (Règlement général de l’Instruction Publique en Indochine), thay thế hẳn khoa cử Hán học bằng nền giáo dục Pháp – Việt, nhưng vẫn không dám loại hẳn chữ Hán ra khỏi học đường, mặc dù đã đề ra nhiều nhiều biện pháp hạn chế việc dạy chữ Hán, như: ở Trường sơ đẳng tiểu học (École Primaire Élémentaire, 3 năm) là môn tự nguyện không quá 1 tiếng rưỡi/tuần và phải được 3 thành phần thoả thuận là phụ huynh học sinh, Hội đồng kỳ mục xã, Hiệu trưởng; ở Trường tiểu học toàn cấp (École Primaire de pleine exerice, 5 năm với 2 năm cuối dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp) nơi nào phụ huynh cùng chính quyền địa phương yêu cầu thì Thống đốc, sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng hàng tỉnh, mới ra quyết định đưa môn chữ Nho thành môn học bắt buộc với hai lớp cuối; ở bậc trung học hoàn toàn dùng tiếng Pháp để giảng dạy, với môn chuyên tiếng pháp 12 giờ/tuần, còn chữ Quốc ngữ và chữ Nho không được quá 3giờ/tuần[5] v.v…

Vậy thì chữ Hán bị “bức tử” từ bao giờ và ai đã làm chuyện đó để tạo nên cái “khoảng trống đáng sợ” mà Nhà giáo Nhân dân GS Nguyễn Cảnh Toàn đã báo động trong bài viết sâu sắc “Chữ Nho với nền văn hoá Việt Nam”, đăng trên trang báo Văn Nghệ và Tạp chí Hán Nôm lập tức đăng lại trên số 4 năm 2003? Xin trích nguyên văn lời giải đáp của vị cựu Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục đầu tiên, người trong những bước đầu xây dựng nền tảng giáo dục nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từng được tiếp nhận sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch:
“Đâu phải nó (“khoảng trống đáng sợ”) bỗng dưng mà có! Do chính chúng ta tạo nên (chúng tôi nhấn – VTK). Quá trình hình thành cái “khoảng chống đáng sợ này” tôi chứng kiến, nên xin kể lại, ngõ hầu rút ra được bài học gì chăng. Năm 1940 chính quyền thực dân Pháp xoá toẹt mấy tiết chữ Nho cuối cùng trong chương trình trung học. Nhưng ngay năm 1942, dưới áp lực của giới trí thức tiến bộ và để tranh giành họ với Nhật, người Pháp đã cho lập ra chuyên ban Cổ học Á Đông, học 6 năm với 5 tiết/tuần ở bậc trung học theo chương trình do Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên và nhà Hán học Trần Văn Giáp biên soạn. Ngay năm học 1942 – 1943 đã tuyển 40 học sinh cho chuyên ban này ở trường Bưởi. Ý thức được nguy cơ tương lai về “khoảng trống” nên trên Thanh Nghị số 22 tháng 11 năm 1942, chúng tôi đã cổ suý cho việc lập ra chuyên ban này và kiến nghị lập ngay một lớp cao đẳng nữa, chuyên giảng về cổ học Hán – Việt. Tôi đánh giá việc lập chuyên ngành đào tạo này là “một then chốt quan trọng của một nền xây dựng xã hội trong tư tưởng quốc gia” (lúc ấy trên báo chí công khai chưa thể viết từ “độc lập”). Tiếp theo, Đề án cải cách giáo dục 1945 (của Bộ Quốc gia Giáo dục, đã thông qua Hội đồng Cố vấn học chính do Chủ tịch Hồ chí Minh thành lập – VTK) lại đề nghị dạy 1 – 2 giờ Hán tự ở tất cả các chuyên ban trung học như một môn cơ sở văn hoá liên quan mật thiết với tiếng Việt và văn hoá Việt. Nhưng rồi … chiến tranh. Và rồi – nên “nhìn thẳng vào sự thật và nói sự thật” như Đại hội VI của Đảng CSVN đã nêu gương” – tư tưởng duy ý chí đã cản trở … Còn từ sau đại hội Đổi mới đến nay vẫn chưa thực hiện được thì có lẽ là vì còn phải chờ sự chuyển biến trong nhận thức của các cấp lãnh đạo ngành văn hoá – giáo dục … Rõ ràng chúng ta đã quên (hay cố tình che đi?) tấm gương kế thừa để phát triển của Nguyễn Tất thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh”[6].

Hai vị tác giả trên tạp chí Hồn Việt đã dùng những lời lẽ đao to búa lớn về “vụ án diệt ngữ” còn là “ẩn số”, khiến các vị phải “hé mở một tia sáng công lý” v.v… và v.v…, thì chúng tôi xin thưa rằng nhân chứng, vật chứng vẫn còn nguyên đó.

Có thể coi là nhân chứng NGND GS Nguyễn Đình Chú, với những lời chứng minh bạch rằng: “Sau Cách mạng tháng 8, trong khu vực Kháng chiến, ở bậc trung học cấp II (nay là trung học cơ sở), tại nhiều trường vẫn học chữ Hán, mỗi tuần 3 tiết, nhưng sau đó thì bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có cải cách giáo dục thì chữ Hán ra rìa hoàn toàn (chúng tôi nhấn – VTK). Sau này ở bậc phổ thông trung học có học Trung văn, nhưng đọc theo âm Trung quốc hiện đại, không phải là âm Hán cổ nữa …”[7]. Xin nói thêm: cố Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, nhà văn hoá lớn, uyên thâm cả Tây học lẫn Đông học, bị bức bách đến mức từng phải đệ đơn lên Hồ Chủ tịch xin từ chức, cho đến cuối đời vẫn còn “trăn trở nhiều” về những ý tưởng không thực hiện được trong công cuộc xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ, dân tộc và khoa học, trong đó có việc phải bỏ dở dang đề án lập chuyên ngành cổ học Á Đông từ bậc phổ thông lên đại học mà ông chính là người đề xuất[8].

Có thể coi là vật chứng cái công trình tổng kết nửa thế kỷ phát triển nền giáo dục cách mạng Việt Nam do các vị lãnh đạo “hậu sinh khả uý” của ngành chỉ đạo biên soạn, đã tuyên phong cho đường lối giáo dục ngoặt sang “tả khuynh” (chữ của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) năm 1950 là “cải cách giáo dục lần thứ nhất”(chúng tôi nhấn – VTK), có nghĩa là phủ định tuyệt đối, coi như chưa từng có cuộc cải cách nền giáo dục quốc dân năm 1945 – 1946, thực sự mang tính cách mạng chính vì có kế thừa để phát triển những tư tưởng tiên tiến của trí thức Nho học và Tây học dân tộc – dân chủ, thậm chí ngang ngược bất chấp cả việc cuộc cải cách đó đã được pháp quy hoá bởi Sắc lệnh số 146 do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký ngày 10 – 8 -1946 “đặt những nguyên tắc căn bản cho nền giáo dục mới”![9]

Vậy đâu phải “việc thay đổi chữ viết “Ta” (ý nói chữ Hán – Nôm) bằng chữ viết “Tây” (ám chỉ chữ Quốc ngữ La-tinh hoá) hoàn toàn (?!) do áp lực của chính quyền thực dân Pháp”? Đâu phải người ngoại bang “bức tử chữ Hán – Nôm”?

Một triết gia đã nói đại ý: Kẻ nào quên bài học lịch sử tất sẽ lặp lại sai lầm của nó.
_____________________________________
[1] Về vấn đề này xin tham khảo bài viết của chúng tôi: Về thời điểm bắt đầu và nhân tố thúc đẩy truyền bá chữ Hán, giao lưu văn hoá Trung – Việt. – Tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 2006; cũng có thể tìm trên mạng Google, từ khoá Vũ Thế Khôi.
[2] Chi tiết về quan điểm và hoạt động của vị quan Tây ưu ái văn hoá Việt này xin đọc: René Despierres: Giám đốc Học chính Trung – Bắc Kỳ Dumoutier (1850 – 1904). – Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số 168, ra tháng 2 / 2005.
[3] Văn minh tân học sách. Đặng Thai Mai dịch. – Hợp tuyển thơ văn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 – 1930), nxb Văn học, tr. 513.
[4] Nguyễn Hiến Lê: Đông Kinh nghĩa thục. – nxb Văn hoá – Thông tin 2002, tr. 92 – 93. Tham khảo thêm: Phan Tây Hồ di thảo. – Ngô Đức Kế biên tập và phê bình; Lương Văn Can xuất bản năm 1926; dẫn theo: Ngô Đức Kế, cuộc đời và tác phẩm. – Ngô Đức Thọ sưu tầm, giới thiệu, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh in năm 2008, tr. 233 – 243.
[5] Theo: Nguyễn Q. Thắng: Khoa cử và giáo dục Việt nam. – nxb Văn hoá – Thông tin 1993, tr. 291 – 293.
[6] Vũ Đình Hoè: Vài ký ức về tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục thời gian cuối năm 1945 đầu năm 1946 (Tham luận tại Hội thảo khoa học – thực tiễn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục do Bảo tàng Hồ Chí Minh và Đại học Sư phạm Hà Nội đồng tổ chức ngày 8 – 10 – 2003”). – Đăng toàn văn: a/ tạp chí Khoa học và Tổ quốc (Diễn đàn trí thức), các số 21 / 2003 và 1+2 / 2004; b/ Tạp chí Văn hiến Việt Nam, số Xuân 2004; giản lược: a/ báo Giáo dục & Thời đại, số 139, ra ngày 20 – 11 – 2003; tạp chí Xưa & Nay, số 223, tháng 11 / 2003.
[7] Nguyễn Đình Chú: Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam. – Tạp chí Hán Nôm, số 2 / 2005.
[8] Nguyễn Kim Nữ Hạnh: Tiếp bước chân cha. – nxb Thế giới, Hà Nội 2003, tr 49.
[9] Bộ giáo dục và Đào tạo: 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 1995). – nxb Giáo dục 1995, tr. 16 – 19.

__________________________________________

Posted in Lịch sử tiếng Việt | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

3. Câu phức hợp

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 23, 2010

Câu phức hợp (gọi tắt là câu phức) là loại câu có từ hai kết cấu chủ-vị (C-V) trở lên, mỗi kết cấu chủ-vị được gọi là một mệnh đề. Tùy theo quan hệ giữa các mệnh đề, ta phân biệt các loại câu phức sau đây:

3.1. Câu phức đẳng lập

Là loại câu phức, trong đó các mệnh đề được liên kết với nhau bằng quan hệ bình đẳng. Loại câu này có thể được nhận biết nhờ các dấu hiệu hình thức sau đây:
1) liên từ liên hợp [như: và, nhưng, song, rồi, còn, hay (là), hoặc (là), mà, vả (lại), nào (là)… nào (là)];
2) quãng nghỉ khi nói, hoặc các dấu ngắt mệnh đề (dấu phảy, dấu hai chấm) khi viết.

Để thiết lập loại câu này, người ta thường dựa vào một số quan hệ. Dưới đây là những quan hệ phổ biến:

Quan hệ liệt kê/ nối tiếp. Ví dụ:

1) Mắt tôi nhìn xuống mũi, mũi tôi nhìn xuống miệng, và miệng tôi thì bịu ra.
2) Nó kêu, nó la, nó rên, nó khóc, nó giả giãy chết, nó nằm lăn ăn vạ.

Quan hệ giải thích. Ví dụ:

1) Nết làm mọi việc: cô đưa hàng buổi sớm, cô đến cơ quan, cô dạy học.
2) Tôi đùa chơi đấy chứ, anh tưởng tôi mê con Dung lắm à?

Quan hệ bổ sung. Ví dụ:

1) Dung chỉ khóc, không dám nói gì.
2) Thôi, tôi nhức đầu như bị búa bổ, vả chóng mặt lắm.
3) Tôi không nói, mà anh ấy cũng không nói.

Quan hệ tương phản/nhượng bộ. Ví dụ:

1) Người đàn bà run cầm cập, còn thầy đồ thì thản nhiên như không.
2) Cà có nhiều loại, nhưng vị cũng không khác gì nhau.

Quan hệ lựa chọn/so sánh. Ví dụ:

1) Tôi đi hay anh đi?
2) Nó nghiện mùi xăng như người ta nghiện ma túy.

3.2. Câu phức phụ thuộc

Là loại câu phức, trong đó các mệnh đề được liên kết với nhau bằng quan hệ phụ thuộc hay quan hệ chính phụ. Như vậy, loại câu phức này có từ hai mệnh đề trở lên, trong đó có một mệnh đề là mệnh đề chính còn các mệnh đề khác thì phụ thuộc vào nó và bổ sung ý nghĩa cho một thành phần của nó. Trong tiếng Việt, khi một thành phần của mệnh đề chính có cấu tạo là một mệnh đề thì câu đó cũng được coi là câu phức chính phụ. Thường người ta phân biệt các loại câu phức chính phụ sau đây:

3.2.1. Câu phụ chủ ngữ

Đây là câu có mệnh đề phụ bổ sung ý nghĩa cho thành phần chủ ngữ của mệnh đề chính. Có thể có hai khả năng:

– Chủ ngữ của mệnh đề chính là một kết cấu chủ-vị được danh từ hóa bằng các từ ngữ pháp. Các từ dùng để danh từ hóa kết cấu chủ-vị gọi là chủ ngữ hình thức của mệnh đề chính. Ví dụ:

Việc nó không đến là lỗi của anh.
C (C – V) – V

– Chủ ngữ có cấu tạo là một kết cấu chủ-vị. Đó là trường hợp mệnh đề chính không có chủ ngữ hình thức, còn kết cấu chủ-vị nằm trọn trong chủ ngữ chính là mệnh đề phụ chủ ngữ. Ví dụ:

Gió thổi mạnh làm đổ cây cối.
C (C – V) – V

– Trong nhiều trường hợp, ta có thể chuyển đổi cấu tạo của hai loại câu trên bằng cách bổ sung thêm chủ ngữ hình thức hoặc loại bỏ chủ ngữ hình thức. So sánh:

1) Chị li dị anh ấy là đúng. / Việc chị li dị anh ấy (là) đúng.
2) Thôi, tôi thăm cô Minh thế là đủ rồi./ Thôi, việc tôi thăm cô Minh thế là đủ rồi.

(còn nữa)

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , | 1 Comment »

Cấu tạo của từ (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 20, 2010

LÊ Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

2. Phân tích cấu tạo hình vị của từ

Như trên đã nói, khi phân tích các từ có cấu trúc nội tại – tức là các từ tạo, ta thu được những đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa: đó là những hình vị hay từ tố cấu tạo từ (để cho tiện, từ đây ta sẽ gọi chung là hình vị cấu tạo từ hay hình vị). Tuy nhiên, hình vị cấu tạo từ không phải là một loại hình vị thuần nhất, mà bao gồm một số tiểu loại với tính chất và chức năng khác nhau.

Căn cứ vào tính chất của hình vị trong từ, ngôn ngữ học truyền thống thường phân biệt ra hai loại hình vị: 1) căn tố (cũng còn gọi là chính tố) – là loại hình vị mang ý nghĩa cơ bản của từ và các hình vị khác phải phụ thuộc vào nó; 2) phụ tố – là những hình vị được ghép với căn tố để tạo nên nghĩa mới và bằng cách ấy tạo ra từ mới (từ tạo). Ví dụ: Trong từ domik (ngôi nhà nhỏ) của tiếng Nga, hình vị dom- là căn tố, vì nó mang ý nghĩa cơ bản của từ này (ngôi nhà), còn -ik là phụ tố, vì khi được ghép với căn tố dom- nó tạo nên nghĩa bổ sung cho căn tố: nêu lên tính chất, đặc điểm của ”ngôi nhà”.

Phụ tố có thể được ghép với căn tố theo những cách thức khác nhau. Tùy theo cách thức kết hợp phụ tố với căn tố, người ta thường phân biệt các loại phụ tố chủ yếu sau đây:

tiền tố (prefix): đó là loại phụ tố được ghép vào trước căn tố, ví dụ như bex- trong từ bexplatnưi (miễn phí) của tiếng Nga, hay in- trong từ infamous (ô nhục) của tiếng Anh.

hậu tố (sufix): đó là phụ tố được ghép vào sau căn tố, như -ok trong từ lexok (cánh rừng nhỏ) của tiếng Nga, hay -able trong từ comfortable (tiện lợi) trong tiếng Anh.

trung tố (infix): là hình vị được đặt xen vào giữa căn tố, ví dụ như từ knouch (cái nút) của tiếng Khơme chẳng hạn, vốn được tạo ra bằng cách đặt chêm trung tố -n- vào giữa căn tố kouch (buộc).

Trung tố được sử dụng phổ biến trong các ngôn ngữ Nam Á như tiếng Tagalog ở Philippin hay tiếng Khơme.

liên tố (interfix) (còn gọi là hình vị nối hay yếu tố nối): là yếu tố dùng để nối các căn tố với nhau nhằm tạo ra từ mới, ví dụ như liên tố -o- trong parovoz (đầu máy hơi nước) của tiếng Nga, hay speedometer (đồng hồ tốc độ) của tiếng Anh.

bao tố (circumfix): là hình vị có cấu tạo không liên tục, một phần của nó được đặt trước căn tố còn một phần được đặt sau căn tố. Ví dụ, trong tiếng Chikasaw ở Oklahoma, hình vị ik -o (có nghĩa phủ định) được đặt bao quanh căn tố để tạo ra từ mới. Ví dụ, so sánh:

lakna [(nó) màu vàng]/ iklakno [(nó) không màu vàng].

Bao tố được sử dụng nhiều trong một số ngôn ngữ như tiếng Mã Lai, tiếng Gioóc-gia, hay tiếng Đức hoặc tiếng Hunggari.

Cần phải nhắc lại rằng, những hình vị nêu trên được gọi là hình vị cấu tạo từ, dùng để cấu tạo từ mới. Trong một số ngôn ngữ, ngoài các hình vị cấu tạo từ ra, người ta còn phân biệt từ căn (hay thân từ) và vĩ tố (hay biến tố). Vĩ tố là hình vị thường được đặt sau căn tố và phụ tố dùng để thể hiện các loại ý nghĩa ngữ pháp. Loại hình vị này thường biến đổi theo các chức năng ngữ pháp khác nhau của từ, ví dụ như vĩ tố -a trong từ kniga của tiếng Nga chẳng hạn, nó có thể biến đổi thành -u (nếu danh từ này làm bổ ngữ trong câu), thành -i (nếu danh từ là định ngữ). Còn từ căn có thể là một hay một phức thể hình vị gồm căn tố và phụ tố (không có vĩ tố). Đây là bộ phận lặp đi lặp lại trong tất cả các hình thái ngữ pháp của từ mà không thay đổi hoặc chỉ thay đổi chút ít cấu tạo hình vị của nó. Trong ví dụ nêu trên của tiếng Nga thì knig- chính là từ căn hay thân từ. Vĩ tố cũng có thể là một hình vị không có hình thức biểu hiện tường minh và khi ấy nó được gọi là hình vị zêrô. Ví dụ, trong danh từ [book-] tiếng Anh có hình vị zêrô [-0] sau từ căn book dùng để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp: số ít, nguyên cách. Tuy nhiên, loại hình vị này không phải là những những hình vị dùng để cấu tạo từ mới mà là hình vị dùng để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp (sẽ được nói kĩ hơn ở phần Ngữ pháp).

______________________________________________________

Posted in Nhập môn ngôn ngữ học, Từ vựng học | Thẻ: , , , , , , , , , , , , | Leave a Comment »

Đối chiếu cấp độ ngữ pháp (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 14, 2010

Lê Đình Tư

2.2. Cấp độ cú pháp

2.2.1. Cụm từ (ngữ đoạn)

– Khi các từ được kết hợp với nhau theo những quan hệ khác nhau ta sẽ thu được các đơn vị cú pháp. Đơn vị cú pháp nhỏ nhất là cụm từ.

Trong ngôn ngữ, có hai loại cụm từ : cụm từ tự docụm từ cố định. Cụm từ cố định (thành ngữ và quán ngữ) là đơn vị từ vựng, còn cụm từ tự do là đơn vị ngữ pháp. Cả hai loại cụm từ này đều có thể là đối tượng quan tâm của ngôn ngữ học đối chiếu, nhưng việc đối chiếu chúng lại tuân theo những nguyên tắc khác nhau và nhằm những mục đích khác nhau. Do vậy, khi đối chiếu cụm từ với tư cách là đơn vị cú pháp, người ta chỉ quan tâm đến cụm từ tự do mà thôi. Nói cách khác, trong ngữ pháp, thuật ngữ ‘cụm từ’ đồng nghĩa với ‘cụm từ tự do’.

– Cũng cần phân biệt cụm từ với ‘giới ngữ’ : Giới ngữ luôn nằm trong cụm từ, là một bộ phận của cụm từ. Một cụm từ không bao giờ bắt đầu bằng giới từ. So sánh :

với hàng xóm (giới ngữ)
nói chuyện với hàng xóm (cụm từ)

Do vậy, khi đối chiếu cụm từ không nên nhầm lẫn hai khái niệm này, bởi vì điều đó có thể dẫn đến việc xác định sai đối tượng đối chiếu.

– Trong các nghiên cứu ngữ pháp, người ta phân biệt ba loại cụm từ : cụm liên hợp, cụm chính phụcụm chủ-vị.

Các cụm từ đều có vai trò rất quan trọng trong việc cấu tạo câu vì chúng đảm đương chức năng của các thành phần câu. Khi thiết lập câu thì cụm từ là đơn vị cơ sở, vì mỗi cụm từ trong câu đảm đương một chức năng ngữ pháp nhất định. Khi có hai cụm từ trở lên đảm đương vai trò của một thành phần câu thì đó phải là những cụm từ cùng loại. Ví dụ:

« Nằm trên giường bệnh, đầu óc vẫn chao đảo, vẫn lo nghĩ

– Thực tế nghiên cứu cho thấy, người học ngoại ngữ ít khi phạm lỗi khi các thành phần câu có cấu trúc tối giản, nghĩa là chỉ bao gồm một từ, mà thường phạm lỗi khi các thành phần câu được mở rộng thành các cụm từ. Đó là do mỗi ngôn ngữ có những cách thức khác nhau để thiết lập các cụm từ, nhất là đối với loại cụm từ chính phụ. Chính vì vậy, khi miêu tả cũng như khi đối chiếu các cụm từ, người ta thường tập trung vào cụm từ chính phụ.

Cụm chính phụ được chia thành: cụm danh từ, cụm động từ, và cụm tính từ.

– Cụm từ trong các ngôn ngữ có thể được thiết lập không giống nhau về các mặt sau đây:

+ Trật tự các thành phần trong cụm từ

Đối với các ngôn ngữ khác loại hình, trật tự từ trong các cụm từ là vấn đề rất đáng chú ý vì đây có thể là nguồn gốc phát sinh lỗi khi học ngoại ngữ. Chẳng hạn, trật tự của các ‘định tố’ hoặc ‘bổ tố’ trong các loại ‘cụm chính phụ’ tiếng Việt mang tính ổn định rất cao và do đó có thể khác với nhiều ngôn ngữ khác, cho nên khi đối chiếu các kiểu cấu trúc cụm từ chính phụ tiếng Việt và các ngôn ngữ khác, cần xác định được những điểm khác biệt về nguyên tắc định vị các định tố/bổ tố trong cụm từ giữa các ngôn ngữ. Ví dụ: so sánh:

t. Anh: that man’s hat
t. Việt: chiếc mũ của người đàn ông ấy

Đương nhiên, ngay cả ở những ngôn ngữ cùng loại hình hoặc gần gũi nhau về loại hình, trật tự của các từ trong cụm từ cũng có thể khác nhau.

+ Các phương tiện dùng để biểu thị tường minh quan hệ cú pháp giữa các thành phần cấu tạo của cụm từ. Đó là các ‘từ công cụ’ hay ‘từ ngữ pháp’, vốn vẫn được gọi chung là ‘hư từ’: giới từ và liên từ. Các ngôn ngữ có thể khác nhau về sự hiện diện/không hiện diện của các loại từ công cụ, hoặc về chủng loại của các từ công cụ. Ví dụ, so sánh:

t. Việt: 1) quan tâm đến âm nhạc
t. Anh: 1/ (to be) interested in music

+ Các phương tiện dùng để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp trong cụm từ và các quy tắc kết hợp các thành phần cấu tạo với nhau. Về phương diện này, giữa các ngôn ngữ có nhiều điểm khác biệt. Trong các ngôn ngữ đơn lập không biến hình, ý nghĩa ngữ pháp chủ yếu được thể hiện bằng các hư từ, trật tự từ hoặc dạng láy của từ, do đó quy tắc kết hợp chủ yếu là quy tắc ‘trật tự từ’ và’ hư từ’. Điều này khiến cho các cụm từ của những ngôn ngữ không biến hình thường bao gồm nhiều phương tiện từ vựng hơn so với những ngôn ngữ thuộc loại biến hình. Ngược lại, ở các ngôn ngữ biến hình, phương thức thể hiện ý nghĩa ngữ pháp chủ yếu là biến đổi hình thái của các từ (phụ gia, biến hình trong từ căn, …), trong đó các dấu hiệu hình thái (hình vị ngữ pháp) thường thể hiện cùng một lúc vài ba ý nghĩa ngữ pháp nên số lượng các phương tiện từ vựng phải ít hơn. Mặt khác, quy tắc kết hợp từ trong những ngôn ngữ này thường là quy tắc ‘hợp nghĩa ngữ pháp’ (ví dụ: hợp giống, số, cách, ngôi…) do đó có thể xảy ra hiện tượng dư thừa phương tiện ngữ pháp. Do vậy, đối chiếu các cụm từ về phương diện này có thể phát hiện ra những điều bất hợp lí hoặc phi lôgich trong các ngôn ngữ.

___________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học đối chiếu, Đối chiếu cấp độ ngữ pháp | Thẻ: , , , , , , , | Leave a Comment »

Câu đơn (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 14, 2010

2.2.2. Câu đơn mở rộng

Đây là loại câu đơn mà ngoài hai thành phần chính còn có các ‘thành phần phụ’. Thành phần phụ có thể phụ thuộc vào một thành phần chính nào đó của câu hoặc phụ thuộc vào cả câu. Căn cứ vào chức năng của thành phần phụ, ta có thể phân biệt các loại câu đơn mở rộng sau đây:

Câu đơn có thành phần phụ bổ ngữ

‘Bổ ngữ’ là thành phần phụ có chức năng nêu lên đối tượng của hành động hay hoạt động nên là thành phần bổ nghĩa cho động từ. Có hai loại bổ ngữ là bổ ngữ gần và bổ ngữ xa. Bổ ngữ gần là đối tượng trực tiếp của hành động/hoạt động, còn bổ ngữ xa là đối tượng gián tiếp của hành động hay hoạt động. Ví dụ:

Hòa viết một bức thư cho thày giáo cũ.
một bức thư = BN gần
thày giáo cũ = BN xa

Vị trí của hai loại bổ ngữ nói chung không có tính bắt buộc, song nếu trước bổ ngữ xa không có kết từ thì vị trí của nó thường ở ngay sau động từ vị ngữ. Ví dụ:

Có thể nói: “Họ giao tiền cho chúng tôi.”
nhưng không thể nói:”Họ giao tiền chúng tôi.”
mà phải nói: “Họ giao chúng tôi tiền”.

Câu đơn có thành phần phụ định ngữ

‘Định ngữ’ là thành phần phụ bổ nghĩa cho danh từ, dùng để nêu lên đặc điểm, tính chất của danh từ. Định ngữ có thể là một tính từ, số từ, danh từ hoặc đại từ nhưng cũng có thể là một cụm từ (cụm tính từ, cụm danh từ). Ví dụ:

1) Con đường mới rất rộng.
2) Anh ấy có vợ trẻ hơn mình tám tuổi.

Câu đơn có thành phần phụ trạng ngữ

‘Trạng ngữ’ là thành phần phụ có thể bổ nghĩa cho toàn bộ nòng cốt câu (cả chủ ngữ và vị ngữ) hoặc chỉ bổ nghĩa cho một thành phần nào đó của câu. Trong thực tế, trạng ngữ cũng có thể là thành phần bổ nghĩa cho thành phần phụ.

Khi được dùng để bổ nghĩa cho toàn bộ nòng cốt câu, vị trí của trạng ngữ thường ở trước nòng cốt câu. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, nó có thể được đặt sau nòng cốt hoặc đặt giữa chủ ngữ và vị ngữ. Nếu được đặt giữa chủ ngữ và vị ngữ, nó phải được nhấn mạnh tách rời bằng quãng nghỉ khi nói, bằng dấu phảy khi viết, và có thể kèm theo một kết từ thích hợp. Nếu chỉ là thành phần phụ của một thành phần câu thì nó thường không được nhấn mạnh, hoặc không được đọc hay viết tách rời. Ví dụ:

1) Mỗi ngày, tôi đến châm cứu hai lần.
2) Chị, bằng hai bàn tay khéo léo của mình, đã nuôi các con khôn lớn.
3) Họ rất tốt bụng, tuy nghèo.
4) Một tòa biệt thự thấp thoáng trong lùm cây.

Câu đơn có thành phần phụ khởi ngữ

‘Khởi ngữ’ (cũng còn gọi là ‘đề ngữ’) là thành phần phụ dùng để nêu trước hay báo trước đối tượng hay nội dung sẽ được đề cập tới trong câu. Khởi ngữ cũng được dùng như là phương tiện để liên kết câu trước với câu sau.
Vị trí của ‘khởi ngữ’ là ở đầu câu. Ví dụ:

1) Thuốc thì tôi xin vái.
2) Giàu, tôi cũng giàu rồi.
3) Cháu thì cháu chịu thôi.

Câu đơn có thành phần phụ gia ngữ

‘Gia ngữ’ (cũng còn gọi là ‘giải ngữ’) là thành phần dùng để bổ sung thêm, làm sáng tỏ thêm nội dung của câu, hoặc dùng để bày tỏ sự đánh giá, quan điểm, tình cảm của người nói (người viết) đối với nội dung được nêu ra trong câu. ‘Gia ngữ’ có thể là một từ, một cụm từ, một câu, và thậm chí một chuỗi câu. Khi nói, gia ngữ được tách ra bằng quãng nghỉ; khi viết, nó được phân biệt bằng (các) dấu phảy, (các) dấu nối (dấu gạch ngang), hoặc dấu ngoặc đơn. Ví dụ:

1) Làm như vậy, theo ý tôi, là tốt rồi.
2) Chết thật, tôi không nhận ra ông ta.
3) Bà cười – cái cười nặng nề và chua xót.
4) Nói của đáng tội, mẹ con tôi cũng chẳng muốn đi.

Nói chung, ‘gia ngữ’ là thành phần độc lập về mặt ngữ pháp với các thành phần khác của câu.

Posted in Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , | 1 Comment »

Cấu tạo của từ

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 13, 2010

LÊ Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

1. Từ gốc và từ tạo (từ mới)

Khi xem xét các từ của một ngôn ngữ, ta thấy có những từ không có cấu trúc nội tại và do đó ta không thể phân tích chúng thành những bộ phận nhỏ hơn có nghĩa (tức hình vị hay từ tố). Ví dụ, nếu phân tích các từ ‘ngồi’, ‘xe’,’tươi’ trong tiếng Việt thành những bộ phận nhỏ hơn thì ta chỉ thu được các âm tố/âm vị, tức là những đơn vị không có nghĩa mà chỉ có chức năng khu biệt. Trong các ngôn ngữ khác cũng đều có những từ như vậy, ví dụ: life (cuộc sống), time (thời gian), sister (chị em gái) trong tiếng Anh, hay pero (bút) lex (rừng) trong tiếng Nga. Song, bên cạnh các từ loại này, ta lại thấy có rất nhiều từ có thể dễ dàng phân tích thành những bộ phận nhỏ hơn có ý nghĩa nhất định do chỗ những bộ phận ấy lặp đi lặp lại ở những từ khác với cùng một ý nghĩa hoặc với những ý nghĩa gần giống nhau. Ví dụ, từ ‘máy bay’ trong tiếng Việt: ta có thể phân tích nó thành hai bộ phận nhỏ hơn là ‘máy’ và ‘bay’. Bộ phận ‘máy’ với ý nghĩa là “hệ thống dùng để chuyển hoặc biến đổi năng lượng và chuyển động” xuất hiện ở một loạt từ khác, như ‘máychém’, ‘máy nổ’, ‘máy phay’, ‘máy cày’, v.v…và ‘bay’ với nghĩa “chuyển dời mình trên không” cũng được lặp lại ở các từ khác, như’ đĩa bay’, ‘tàu bay’, ‘bay lượn’, ‘bay chuyền’, v.v… Tương tự, trong tiếng Anh, từ manhood (tuổi trưởng thành của nam) có thể được phân tích thành hai bộ phận là man và hood, trong đó bộ phận man ta có thể bắt gặp trong các từ khác, như mankind (nhân loại), manpower (nhân lực), v.v…còn bộ phận hood với cùng một ý nghĩa xuất hiện trong các từ, như childhood (tuổi thơ ấu), babyhood (tuổi trứng nước), womanhood (tuổi trưởng thành ở nữ), v.v… Hay trong tiếng Nga cũng vậy, ta có thể tìm thấy một loạt từ loại này, chẳng hạn: domik (ngôi nhà nhỏ), lexok (cánh rừng nhỏ), v.v…

Đặc điểm chung của loại từ thứ nhất là chúng thường biểu thị những sự vật, hiện tượng hay khái niệm gắn bó với đời sống hàng ngày của con người từ xa xưa và vì thế, chúng đã tồn tại từ rất lâu trong ngôn ngữ. Trong khi đó thì các từ thuộc loại thứ hai thường là những từ tương đối mới, được tạo ra muộn hơn trên cơ sở của những từ thuộc loại thứ nhất. Chẳng hạn, từ ‘máy bay’ trong tiếng Việt so với cả ‘máy’ và ‘bay’ đều rất mới.
Chúng ta gọi loại từ thứ nhất là ‘từ gốc’ còn loại từ thứ hai là ‘từ tạo’ hay ‘từ mới’.

Các từ mới có thể khác nhau về cấp bậc cấu tạo, do chúng được tạo ra ở những thời điểm khác nhau: một từ mới không nhất thiết phải được tạo ra từ một hoặc những’ từ gốc ban đầu’ (hay còn gọi là ‘từ gốc nguyên cấp’) mà có thể được tạo ra từ một từ mới khác. Chẳng hạn, từ ‘cá’ của tiếng Việt trước đây được dùng làm từ gốc để tạo ra từ mới là ‘cá trắm’, sau đó do nhu cầu của hoạt động giao tiếp, từ ‘cá trắm’ lại được dùng để tạo ra những từ mới khác, như ‘cá trắm đen’ hay ‘cá trắm cỏ’. Và nếu sau này thấy cần thiết, người ta lại có thể dùng những từ sau cùng này để tạo ra những từ mới khác nữa. Như vậy, từ ‘cá trắm’ đã trở thành một từ gốc, song đây là loại’ từ gốc thứ cấp’, so với từ gốc nguyên cấp là từ ‘cá’. Hiện tượng từ mới có cấu trúc nhiều cấp bậc là hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, ví dụ như trong tiếng Anh: uncomfortable = un + [(comfort) + able] (bất tiện), hay trong tiếng Pháp: imperméable = im + [(permé) + able] (không thấm nước). Để phân biệt, ta sẽ gọi các từ tạo thuộc các cấp bậc cấu tạo khác nhau là từ ‘tạo bậc I’, ‘từ tạo bậc II’,…

Như vậy, xét về mặt cấu tạo, các từ khác nhau trước hết ở khả năng phân tích được hay không phân tích được thành những bộ phận nhỏ hơn có nghĩa, tức là thành các hình vị hay từ tố. Trong số những từ có thể phân tích được về mặt cấu trúc, ta lại có thể phân biệt những nhóm từ có cấp bậc cấu tạo khác nhau. Đó chính là cách thức cấu tạo từ trong các ngôn ngữ. Do đó, để biết được cách cấu tạo của từ mới, ta phải biết phân tích cấu tạo hình vị của từ.

(còn nữa)
__________________________________________

Posted in Nhập môn ngôn ngữ học, Từ vựng học | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

Từ nghề nghiệp một số nghề cổ truyền ở Huế

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 11, 2010

TRƯƠNG THỊ THUYẾT

1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính…mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.

Nghiên cứu về Huế, ngoài việc nghiên cứu lịch sử, địa lý và những lĩnh vực khoa học khác, chúng ta cần nghiên cứu về những đặc trưng ngôn ngữ. Việc tìm hiểu từ ngữ nghề nghiệp một số nghề cổ truyền chính là phục vụ cho mục đích đó.

Để thực hiện bài viết này, chúng tôi đã phải tiến hành làm việc theo phương pháp trực tiếp điều tra bằng cách hỏi các nghệ nhân về tên gọi, chức năng, đặc trưng… của từng sự việc, từng dụng cụ, từng thao tác, từng thành phẩm. Sau đó, chúng tôi làm công việc đối chiếu, so sánh các tư liệu có được tại các địa bàn khác nhau của Huế. Điều đó đảm bảo độ tin cậy trong khi xử lý những từ ngữ thu thập được về các mặt sau:

– Tìm hiểu tên gọi và cách gọi tên một số nghề cổ truyền ở Huế.

– Tìm hiểu về cấu tạo cũng như đi tìm những nét tương đồng và dị biệt giữa từ nghề nghiệp với từ địa phương, từ cổ…

Do khuôn khổ bài viết nên ở đây chúng tôi chỉ dừng lại khảo sát về tên gọi và cách gọi tên của ba nghề: nón lá, thêu, và điêu khắc trên gỗ.

Như chúng ta đã biết cách gọi tên của từ nghề nghiệp nằm trong xu thế đặt tên cho sự vật, hiện tượng hay quá trình lao động. Việc gọi tên này chủ yếu có thể dựa trên các cơ sở sau:

+ Dựa vào chức năng, đặc trưng về nguồn gốc của từ nghề nghiệp.

+ Dựa vào các công đoạn để đặt tên.

2. Có thể bắt đầu bằng một số từ ngữ nghề nón lá. Ai đã một lần đến Huế hẳn không thể quên bóng dáng cô gái Huế duyên dáng trong tà áo dài màu tím với chiếc nón bài thơ che nghiêng. Nón lá Huế đã có mặt ở khắp nơi, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Huế nổi tiếng là xứ sở của nón lá. Chằm nón là một nghề cổ truyền xuất hiện từ lâu ở đất này.

Qua khảo sát, chúng tôi thu được 97 từ ngữ chỉ tên gọi của nghề và các hiện tượng liên quan đến nghề này. Ở đây, tên gọi của từng sự vật hầu như đều có chức năng riêng trong từng công đoạn. “Gấc chằm vành chân” chỉ có một chức năng dùng để chằm vành cuối cùng. Nó khác với “gấc vấn” là loại gấc dùng để vấn vành. “Vành giằng” chỉ dùng vào việc giữ lá khi chằm nên vị trí luôn nằm ngoài “lá nón”.

Người ta còn gọi tên các sự vật dựa vào đặc trưng tính chất, hình dáng… của nó. Loại khuôn có độ dốc hơi đứng được gọi là “khuôn đứng”. Khuôn hơi bành ra được gọi là “khuôn trảng”. Khuôn tạo mái nón hơi bầu lại có tên “khuôn bầu”. Trong phân loại lá nón người ta chia ra “lá đực”, “lá cái”, “la gia”, “lá non”… như sự phân loại sự vật hữu sinh vậy. Còn kết quả sản phẩm thì lại được gọi tên theo số lớp lá, theo sắc màu của bài thơ: “nón hai lớp”, “nón ba lớp”, “nón bài thơ đỏ”, “nón bài thơ tím”…

Từng dụng cụ, từng bộ phận của dụng cụ được người thợ “làng nón” gọi bằng những tên gọi thích hợp. “Khuôn” nói chung là một cái gì đó có giới hạn nhất định. “Khuôn nón” được làm bằng gỗ, có 12 “kèo dọc” xếp theo hình chóp. Khuôn có 17 “nấc”. Khoảng cách từ nấc sau ngắn hơn nấc trước 1 mm tính từ dưới lên. “Vành” cũng có nhiều loại mang ý nghĩa loại biệt rõ nét.”Vành cương” là loại vành dưới cùng của khuôn. “Vành giằng” dùng để giữ lá nón khi chằm đúng như tên gọi của nó.

Do tính chất công việc của nghề nón lá cần nhẹ nhàng nên các thao tác trong nghề cũng tỷ mỷ, nhẹ nhàng và hàm chứa cả thủ thuật nhà nghề. Cũng là “sắp” nhưng lá khi cho lên nón phải “sắp xéo” sau khi đã “ủ lá”, “ủi lá”. Trong nghề nón, “lựa lá” là khâu quan trọng nhất. Người làm nghề khai thác lá nón phải biết chọn lá “đứng tuổi”. Nếu chọn lá già quá sẽ làm cho nón thô, nặng. Lá non khi “xây” nón không đẹp. Một chiếc nón nếu chọn được lá “vừa tuổi” chỉ cần tám, chín lá là đủ. Người thợ khi “chằm một tay” khi “chằm hai tay”. Người ta có thể “chằm thưa”, “chằm dày”, “chằm thô” hay “chằm mảnh” tùy theo yêu cầu của từng loại sản phẩm. Tùy theo mức độ diễn biến công việc và tính chất của nó mà người ta đặt ra tên gọi cho các hoạt động, động tác.

Sản phẩm làm ra người ta không dựa vào chức năng mà chủ yếu dựa vào chất liệu, màu sắc, mục đích tiêu thụ… để gọi tên. Nón được người tiêu thụ đặt hàng trước khi làm gọi là “nón đặt”. Làm bán sỉ cho bạn hàng ở chợ gọi là “nón chợ”. Nón lợp bằng lá gì được gọi tên ấy: “nón lá dừa”, “nón lá kè”… Nón có cài hoa giữa hai lớp lá được gọi “nón bông”, cài bài thơ gọi “nón bài thơ”. Đến lượt mình “nón bài thơ” lại được gọi tên loại biệt theo màu sắc: “nón bài thơ đỏ”, “nón bài thơ tím”. Nói chung nón bài thơ thuộc “nón hai lớp”. Giữa hai lớp lá có lót hình ảnh chùa Thiên Mụ đối diện với cầu Trường Tiền. Một phía khác là hình đôi nam nữ, đôi chim én hay một bông hồng đối diện với bài thơ. Tất cả đều lồng trong khung giấy hoa có sẵn và nhuộm màu đỏ, tím… Tên gọi “nón bài thơ đỏ”, “ nón bài thơ tím”… là dựa vào màu sắc ở khung này.

3. Thêu là một nghề thủ công truyền thống ở Huế. Sản phẩm của nó là những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao. Khảo sát nghề thêu ở các cơ sở thêu xuất khẩu trong thành phố, chúng tôi thu nhập được149 đơn vị chỉ tên gọi của nghề. Người ta gọi tên có thể dựa vào chức năng của nó. Khung để thêu được gọi là “khung thêu”. Trong “khung thêu” lại có các tên gọi loại biệt, chẳng hạn khung thêu gối thì gọi là “khung gối”, thêu khăn gọi là “khung khăn”… Phần lớn từ ngữ dựa vào tính chất của màu sắc để phân biệt vì nghề thêu là một nghề thủ công đòi hỏi một số lượng màu sắc rất lớn để tạo hình. Người thợ thêu Huế sử dụng những sắc chỉ mang đặc trưng rất riêng: “chỉ tím”, “chỉ cổ đồng”, “chỉ hoa hiên”, “chỉ hoa hồng”, “chỉ lục nguyệt bạch”, “chỉ dạ lang”, “chỉ cổ đồng phai”… Có lúc dựa vào tính chất công việc hay quá trình làm việc, người thợ có các tên gọi: “thêu chăng chặn”, “thêu sa hạt thẳng”, “thêu đâm xô ngang”, “thêu đâm xô lượn”, “thêu đâm xô xoay”, “thêu lướt vặn cong”, “thêu bó bạt lượn cong”…

Trong quá trình sản xuất có những hiện tượng liên quan đến kỹ thuật như: để mũi chỉ thêu sau không đúng vào đầu mũi thêu trước tạo nên mối hở gọi là “hở khe”. Thêu đẹp là khi “chân chỉ đều” thêu xấu là khi “chân chỉ mẻ”. Nếu chỉ khi thêu bị chồng lên nhau gọi là “thêu bị vác” hay “vác chỉ”. “Vác” biểu thị hành động mang trên vai cái gì đó.

Khi sản phẩm ra đời, để gọi tên, người thợ có thể dựa vào chức năng của sản phẩm. Chẳng hạn, tấm dùng trải giường được gọi là “ra trải giường”, gối cho một người goi là “gối lẻ”, cho hai người gọi là “gối đôi”. Mỗi sản phẩm phẩm là một bức tranh hài hòa. Ở bốn góc của tấm “ra trải giường” thường thêu “bốn cành trôi”, ở giữa thêu “giàn hồng”. Trên mỗi sản phẩm là hình ảnh của thế giới tự nhiên như hoa lá, chim chóc, cỏ cây… Vì phải tỉ mỉ, khéo léo và làm nổi bật hình thêu trên nền vải nên người thợ đã phân biệt sự vật bằng các tên gọi mang tính biệt loại đến từng chi tiết. Chẳng hạn, cũng là bông hồng nhưng trên sản phẩm này thì “bông hồng bạch”, sản phẩm kia lại là “bông hồng quế”. Có những tên gọi các loài hoa trên sản phẩm được đặt theo quá trình phát triển của sự vật từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc: “hoa sơ khai”, “hoa hàm tiếu”, “hoa thịnh khai”, “hoa mãn khai”, “hoa tạ khai”. Trên áo cưới, gối cưới… được người thợ thêu Huế thêu những mẫu hình mang tính cách điệu. Tên gọi các hình thêu trên sản phẩm thường có một yếu tố chỉ động vật, một yếu tố chỉ thực vật: “mai-trĩ”, “trà-trĩ”, “chim-hoa”, “tùng-hạc”, “sen-phượng”…

Phương thức tạo hình của nghề thêu rất quan trọng. Ở đây, người ta làm công việc tái tạo lại thế giới tự nhiên bằng đường kim mũi chỉ. Vì vậy, người thợ thêu phải sử dụng linh hoạt và chính xác các màu. Làm thế nào để sản phẩm làm ra phải phản ánh đúng sự vật như trong thực tế. Người thợ giỏi không chỉ đơn thuần về nghệ thuật mà còn cả việc pha 123 màu chỉ cho hài hòa. Cố gắng “màu xanh lá cam” phải khác “ màu xanh lá sen”, phải không giống “màu xanh lá cúc”, “xanh lá mạ”… Những từ ngữ này đã nói lên sự quan sát và phân biệt chi li các sắc màu của sự vật trong thiên nhiên của người thợ thêu Huế.
4. Ở Huế, chúng ta thường thấy những bức chạm trỗ trên các đồ cổ, những đường nét hoa văn khắc trên gỗ trong chùa chiền, lăng tẩm và trong rất nhiều biệt thự ẩn hiện dưới những vườn cây… Các công trình điêu khắc trên gỗ đó hấp dẫn với mọi người vì nó mang những nét dáng riêng, hòa hợp với cảnh thiên nhiên thơ mộng để tạo nên cái bản sắc đậm đặc Huế. Chỉ riêng điêu khắc trên gỗ chúng tôi thu được 96 đơn vị.

Dụng cụ chủ yếu dùng cho việc điêu khắc trên gỗ gồm: “đục thẳng”, “đục lưỡi cong”, “đục vũm”, “đục tách”, “đục bạt”… Mỗi loại dụng cụ được gọi tên theo hình dáng và chức năng riêng. Từ mỗi loại trên lại được chia ra theo kích cỡ khác nhau: “đục cong năm phân”, “đục cong sáu phân”, “đục bạt một ly”,… Cũng là gọi tên theo chức năng nhưng các chức năng đó lại tiếp tục được phân loại tỉ mỉ hơn ngay trong tên gọi: “đục tách thô”, “đục tách thanh”…

Là một nghề đòi hỏi kỹ thuật của đôi tay tinh xảo để tạo những nét trang nhã, thanh thoát trong tác phẩm nên các tên goi hoạt động cũng nhẹ nhàng: “chuốt”, “tạc”, “trỗ”, “chạm”, “khảm”, “khắc”, “cạo”… bằng những mũi dao nhọn hay các loại “đục”, “chàng”, “thảng”… Chính nhờ những thao tác, những hoạt động nhẹ nhàng bằng những dụng cụ được phân loại đến chi tiết này mà nhìn vào từng nét khắc, ta thấy nó vừa “ngọt nét”, vừa “bén thớ gỗ”, và mỗi nét khắc như “chân đê” hay “bờ thành” thoai thoải.

Sau những ngày nghiêm túc làm việc, người nghệ nhân đã tạo nên được những sản phẩm thấm mồ hôi với các đề tài là từ Hán Việt: “tượng long cuốn thủy”, “tượng ông già Xích Bích”, “tranh khắc lan điệp”, “tranh khắc tùng cúc”, “tùng lộc”

Tất cả đều từ những “súc”, “tấm”, “mảnh” gỗ khác nhau, qua bàn tay nghệ nhân, nó đã trở thành những tác phẩm sống động đến kỳ diệu. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của người nghệ nhân Huế phải kể đến “tượng thuyền rồng”. Hình ảnh hai chiếc thuyền rồng kéo nhau bằng một sợi dây xích từ một khúc gỗ nguyên làm ra. Thoạt trông người ta vẫn tưởng các mắt xích gỗ kia được làm riêng từng nửa vòng rồi ghép lại. Sự thật cả ba phần được nối liền nhau giống một hình vẽ công phu nhiều đường nét nhưng chỉ bằng một nét vẽ.

5. Sẽ thiếu sót nếu tìm hiểu về tên gọi và cách gọi tên mà không nói đôi điều về nghĩa rộng nghĩa hẹp của các tên gọi. Chính nó và những “lời nhắn gởi sâu xa” thể hiện trong các tầng nghĩa được biểu hiện rõ nét trong những từ ngữ gọi tên sản phẩm. Những bức tranh khắc gỗ, những bức thiêu với những bông hoa, nhánh hoa mai-lan-cúc-trúc, trà mi, hải đường… không chỉ đơn thuần thông báo về cái đẹp mà qua đó muớn nhắn gởi về cả một truyền thống văn hóa của một vùng đất bằng những ý nghĩa biểu trưng mà nó mang. Bức chạm cành mai là tượng trưng cho cốt cách. Bức thêu bông lan là tượng trưng cho sự vương giả. Trên những tà áo dài trắng của các bạn gái Huế tuổi 20,21 ta thường thoáng gặp những bông trà mi đượm vẻ quyền thế nhưng trong sáng. Ta cũng chỉ gặp những chiếc áo dài thêu những bông quỳnh với dáng sơ khai, thịnh khai.. trong những đêm trăng bên sông Hương hay trên cầu Trường Tiền. Bông cẩm chướng, bông bất tử,… chỉ thấy trên áo dài các bạn gái hay phụ nữ có người yêu, có chồng đang ở xa… Bông cúc vàng thường chỉ dùng cho những bức thêu, bức chạm.. tượng trưng cho sự phú quý.

Nghĩa gián tếp trong tên gọi những bức cham, những sản phẩm thêu.. này chính là kết quả của quá trình sử dụng tên gọi các từ ngữ nghề nghiệp bằng một số biện pháp chuyển di ngữ nghĩa như ẩn dụ hóa, biểu trưng hóa.

Tóm lại, đã từ lâu chúng tôi cùng các đồng nghiệp của mình ở Huế vẫn đã và đang sưu tầm, giới thiệu và muốn làm một cuốn từ điển về các nghề cổ truyền của vùng đất này. Với những đặc điểm lịch sử riêng, các nghệ nhân thuộc các nghề truyền thống của Huế đã giữ gìn và sáng tạo nên nhiều thuật ngữ, từ ngữ nghề nghiệp gắn liền với kỹ thuật chế tác ra các loại đồ gỗ, đồ thêu, đồ tre… Các nghề trên được phát triển theo các công trình từ thô mộc đến hoàn thiện qua từng giai đoạn. Những sáng tạo kỹ thuật ấy được phản ánh trong các nhóm từ ngữ nghề nghiệp ngày một thay đổi theo năm tháng và nghề nghiệp. Do đó các từ ngữ chuyên môn trong nghề cũng thật đa dạng. Nếu mỗi người nghiên cứu chịu khó sưu tầm trong kho từ ngữ của các nghệ nhân Huế chắc rằng ta sẽ có một cuốn từ ngữ nghề nghiệp những nghề cổ truyền của mảnh đất này.

Việc thuật lại sơ lược các tên gọi và cách gọi tên một số công đoạn của ba nghề trên cũng chỉ nhằm mục đích bước đầu ghi lại một số từ ngữ nghề nghiệp xưa và nay của các nghề này.

T.T.T
(138/08-00)

——————————————–
Tài liệu tham khảo:
1.Tạp chí ngôn ngữ, các số 1-2/1977; 1-4/1978; 1/1980; 1-3/1984; 2/1985; 4/1989
2.Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb KHXH, Hà Nội, 1977
3.Lê Văn Hảo. Huế giữa chúng ta. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1984
4.Một số luận văn, khóa luận của sinh viên Ngữ Văn, ĐHTH Huế.

Posted in Từ ngữ nghề nghiệp, Từ vựng học | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Các đơn vị cú pháp tiếng Việt (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 8, 2010

2. Câu đơn

2.1. Khái niệm chung

Câu đơn là loại câu mà trong thành phần cấu tạo chỉ có một kết cấu nòng cốt (một kết cấu C-V). Trong thực tế giao tiếp, phần nòng cốt có thể chỉ bao gồm hai thành phần chính là chủ ngữvị ngữ với cách cấu tạo đơn giản, nghĩa là mỗi thành phần chỉ bao gồm một từ, ví dụ:

Mây bay./ Gió thổi.

nhưng cũng có thể có cấu trúc mở rộng, trong đó mỗi thành phần chính là một cụm từ, ví dụ:

Một đám mây trắng đang bay qua mặt trăng.

– Trong giao tiếp, có những trường hợp mặc dù phát ngôn thiếu một trong hai thành phần chính, thậm chí có thể thiếu cả hai thành phần chính, nhưng vẫn biểu thị một nội dung thông báo đầy đủ, ví dụ:

1) Năm hôm, mười hôm… rồi nửa tháng, một tháng.
2) Trước nhà trồng hai cây cau.
3) Ồn ào một lúc.

– Do vậy, người ta thường phân biệt hai loại câu đơn: Câu đơn bình thườngcâu đơn đặc biệt (hoặc đơn vị tương đương câu).

2.2. Câu đơn bình thường

Câu đơn bình thường có thể chia thành hai loại nhỏ:

2.2.1. Câu đơn hai thành phần: Là loại câu đơn, trong đó chỉ có mặt hai thành phần chính: chủ ngữvị ngữ. Những kiểu kết cấu thường gặp là:

– Kiểu có vị ngữ động từ gồm một hoặc một vài động từ, Ví dụ:

1) Chim hót.
2) Tần phải đi nằm.

– Kiểu có vị ngữ danh từ gồm động từ quan hệ (‘là’, ‘làm’) và danh từ. Ví dụ:

1) Họ là sinh viên.
2) Bác Kim làm thợ mộc.

– Kiểu câu có vị ngữ tính từ. Ví dụ:

Cái món này ngon.

– Kiểu câu có vị ngữ là một ngữ cố định (thành ngữ, quán ngữ). Ví dụ:

Thằng ấy ba voi không được một bát nước xáo.

– Kiểu câu có vị ngữ là một kết cấu giới ngữ. Ví dụ:

1) Cái nón này của chị ấy.
2) Dao này để thái thịt.

– Kiểu câu có vị ngữ là một kết cấu gồm tính từ/số từ + danh từ. Ví dụ:

1) Cái ao này rộng hai sào.
2) Ông cụ tôi (năm nay) bảy mươi tuổi.

– Kiểu câu có vị ngữ là một kết cấu bị động. Ví dụ:

1) Ông ấy mới được thủ tướng khen.
2) Bức thư này của chị Bích gửi.

– Kiểu có vị ngữ là một cụm chủ-vị hoặc cụm chính phụ. Ví dụ:

1) Cái xe này màu đẹp.
2) Bà tôi mắt đã mờ, chân đã chậm.

– Kiểu có vị ngữ là một kết cấu khứ hồi. Ví dụ:

1) Anh ấy vừa đi Thái Lan về.
2) Tôi mới sang hàng xóm về.

– Kiểu câu có vị ngữ là một kết cấu gồm động từ trở thành/trở nên + danh từ/tính từ. Ví dụ:
1) Chúng đã trở thành bố mẹ.
2) Nó trở nên khó gần.

(còn nữa)

Posted in Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »

Hình vị – từ – từ vựng

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 3, 2010

LÊ Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

1. Hình vị – đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa

Nhiều người cứ nghĩ rằng, khi kết hợp các âm tố với nhau, ta sẽ có các từ. Sự thực thì không phải bao giờ cũng như vậy. Nếu kết hợp các âm [ă], [n] và thanh ngang lại với nhau thì ta thu được một tổ hợp âm “ăn” của tiếng Việt, có ý nghĩa hoàn chỉnh và ta có thể kết hợp nó với các đơn vị như “tôi” và “cơm” thành một thông báo: “Tôi ăn cơm”. Song, nếu ta kết hợp các âm [d], [ă], [n] và thanh sắc, thành tổ hợp âm “đắn” thì rõ ràng tổ hợp âm này không cho ta ý nghĩa nào cả, và do đó, ta không thể dùng nó để kết hợp trực tiếp với các đơn vị khác thành một thông báo. Chẳng hạn, không thể kết hợp nó như là một tính từ để tạo ra một câu, kiểu như: “Ông ấy có nước da đắn”. Tổ hợp âm này chỉ xuất hiện trong một đơn vị lớn hơn là “đỏ đắn”, và chỉ trong đơn vị ấy, “đắn” mới cho ta một ý nghĩa nào đấy. Nói là nó cho ta một ý nghĩa nào đấy, bởi vì khó ai có thể nói rõ “đắn” biểu thị cái gì, nhưng chắc chắn là nó có nghĩa, vì rằng nó giúp ta phân biệt “đỏ đắn” với “đỏ au” hay “đỏ”. Một loạt các đơn vị trong tiếng Việt đều có chung tính chất như vậy, ví dụ như: đèm, biêng, tiêng, núc, hấu, v.v… . ở nhiều ngôn ngữ, những đơn vị như vậy được gắn chặt với các đơn vị có nghĩa hoàn chỉnh, làm thành một bộ phận của chúng, ví dụ như: -er trong worker (công nhân), singer (ca sĩ) của tiếng Anh, hay – at’el trong pisat’el’ (nhà văn), prepodava t’el’ (giáo viên) trong tiếng Nga. Chúng ta chỉ có thể biết được chúng nhờ vào sự xuất hiện lặp đi lặp lại, với cùng một ý nghĩa hoặc với ý nghĩa tương đối giống nhau của chúng. Nói rằng chúng lặp đi lặp lại, nhưng không phải bao giờ hình thức của chúng cũng giữ được nguyên vẹn mà có thể bị thay đổi đến một mức độ nhất định, và khi ấy, để nhận diện chúng, ý nghĩa cấu tạo của chúng sẽ là căn cứ quan trọng. Chẳng hạn, beg- trong begat’ (chạy) của tiếng Nga có dạng thức là bež trong từ beženets (vận động viên chạy), hoặc write [rait] và written [rit] trong tiếng Anh cũng khụng hoàn toàn giống nhau. Đơn vị đó được coi là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. Các nhà ngôn ngữ học gọi đó là hình vị hay từ tố.

Như vậy, hình vị (hay từ tố) là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, chúng tồn tại bằng cách lặp đi lặp lại dưới cùng một dạng hoặc dưới dạng tương đối giống nhau trong các từ.

2. Từ là gì?

Tuy rằng xét ở nhiều khía cạnh, từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị trung tâm trong toàn bộ hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ, song việc xác định từ không phải lúc nào cũng thuận lợi và khó có thể nêu lên được một định nghĩa thật chính xác về từ, bởi lẽ từ không phải là loại đơn vị thuần nhất. Từ có thể khác nhau ở nhiều khía cạnh: khả năng thay đổi hình thức cấu tạo, khả năng biểu thị sự vật, hiện tượng, khả năng biểu thị khái niệm, khả năng biểu thị đặc trưng, tính chất, hành động hay hoạt động, khả năng liên kết các đơn vị ngôn ngữ, khả năng biểu thị trạng thái tâm – sinh lý, v.v… Do vậy, chúng ta sẽ nêu lên đây những đặc trưng cơ bản của từ, để từ đó có thể nêu lên một định nghĩa khả dĩ chấp nhận được về từ.
Trước hết, từ là một cấu trúc âm thanh, có thể được tách ra khỏi chuỗi lời nói một cách dễ dàng và hiển nhiên, nhờ vào các yếu tố siêu đoạn tính. Trong một số ngôn ngữ, như tiếng Séc, Pháp, Ba Lan… thì yếu tố siêu đoạn đó là vị trí cố định của trọng âm trong từ. Nhờ vào trọng âm từ mà người ta biết rõ khi nào thì từ bắt đầu và kết thúc. Trong tiếng Nga hay tiếng Anh thì đó là trọng âm lực, kèm theo những thay đổi về độ dài của nguyên âm trong âm tiết mang trọng âm và chất lượng của các nguyên âm trong những âm tiết không mang trọng âm. Ở những ngôn ngữ có trọng âm nhạc tính như tiếng Nhật hay tiếng Hàn, việc nhận diện các từ được thực hiện nhờ sự nhận biết sự thay đổi về độ cao của giọng nói khi phát âm các âm tiết khác nhau của từ. Trong khi đó thì người Việt lại dựa vào thanh điệu (đối với các từ một âm tiết), hoặc cả thanh điệu và trọng âm lực (đối với các từ đa tiết) để nhận diện các từ. Cấu trúc âm thanh của từ khá ổn định, tuy mức độ ổn định có khác nhau tuỳ theo từng ngôn ngữ. Chính vì vậy mà từ có thể được giữ lại trong trí nhớ các thành viên của cộng đồng ngôn ngữ dưới dạng những “hình ảnh âm thanh”.
Thứ hai, từ có một cấu trúc hình thức tương đối chặt chẽ, không cho phép ta dễ dàng phá vỡ nó bằng những cách thức như chêm xen các yếu tố khác vào giữa các bộ phận cấu tạo của chúng. Chẳng hạn, ta không thể chêm xen các từ như này, kia, ấy, của… vào giữa các bộ phận cấu tạo của các từ máy bay hay giáo trình. Trong khi đó thì máy tốt không phải là một từ vì ta có thể chêm xen các yếu tố khác vào giữa hai bộ phận “máy” và “tốt”, ví dụ: Cái máy này tốt. Chính vì vậy, có những đơn vị có hình thức ngữ âm rất giống nhau, nhưng đơn vị này là từ, còn đơn vị kia lại không phải là từ. Chẳng hạn, chân vịt trong con tàu thuỷ là một từ, nhưng chân vịt với nghĩa là chân của con vịt thì là hai từ.
Thứ ba, từ có nội dung ý nghĩa hoàn chỉnh. Đối với các thực từ (hay còn gọi là từ từ vựng), tức những từ biểu thị sự vật, hiện tượng, đặc trưng, tính chất v.v…, thì đó là nội dung khái niệm về các sự vật hay hiện tượng… mà từ biểu thị. Nội dung khái niệm này là những chỉnh thể. Nếu có một tác động nào đó nhằm chia cắt từ thành những bộ phận nhỏ hơn thì tính hoàn chỉnh của nội dung khái niệm đó sẽ bị phá vỡ. Thực vậy, từ ngã lòng trong tiếng Việt biểu thị khái niệm về trạng thái tâm lý: chán nản, không muốn tiếp tục một công việc đang làm. Nếu ta chia cắt nó thành hai bộ phận là ngã và lòng thì mỗi bộ phận sẽ biểu thị một nội dung khái niệm hoàn toàn khác mà khi cộng laị, ta sẽ thu được một nội dung ý nghĩa khác, hoặc không thu được một nội dung ý nghĩa rõ rệt nào cả. Tuy nhiên, tính hoàn chỉnh của nội dung khái niệm không phải bao giờ cũng giống nhau ở tất cả các ngôn ngữ. Như từ ‘ink-pot’ (lọ mực) trong tiếng Anh chẳng hạn, ta có thể phân tích nó thành “ink” (mực) và “pot” (lọ), trong đó mỗi bộ phận dường như vẫn có ý nghĩa hoàn chỉnh và nếu cộng hai ý nghĩa đó lại với nhau, dường như ta vẫn thu được ý nghĩa giống như từ ‘ink-pot’. Song, ngay cả trong những trường hợp như vậy, sự khác nhau giữa hai ý nghĩa vẫn tồn tại, tuy có khó nhận thấy hơn. Có thể diễn giải sự khác nhau đó như sau: Ink + pot = ink và pot, còn ink-pot = pot để đựng ink. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ngay cả khi không có mực, một cái lọ mực vẫn cứ được gọi là lọ mực chứ không giống như trường hợp “ink + pot” (lọ và mực), trong đó mực luôn luôn phải có mặt. Như vậy, ý nghĩa của từ ink-pot vẫn chỉ là một nội dung khái niệm hoàn chỉnh, chứ không phải là do hai nội dung khái niệm cộng lại mà thành.
Còn đối với những từ không có chức năng biểu thị khái niệm (gọi là hư từ hoặc từ ngữ pháp) thì nội dung ý nghĩa đó là chức năng ngữ pháp được quy định chặt chẽ cho từng từ trong hệ thống ngôn ngữ. Những từ mà, và, nhưng của tiếng Việt; i, do, iz, của tiếng Nga, hay of, on, but của tiếng Anh, sở dĩ có thể đứng độc lập và được lưu giữ trong trí nhớ của người Việt, người Nga, hay người Anh là do tính hoàn chỉnh về chức năng ngữ pháp của chúng. Do có chức năng ngữ pháp riêng của mình mà mỗi hư từ trở thành một từ độc lập, cho dù nhiều khi hình thức của chúng có vẻ giống như những bộ phận của từ (tức là hình vị), như các giới từ na (trên), v (trong), s (với) trong tiếng Nga chẳng hạn; những từ đó không có trọng âm riêng và nhiều khi phụ thuộc về mặt ngữ âm vào thực từ. Ý nghĩa của các từ này là những loại quan hệ khác nhau giữa các từ mà chúng được dùng để biểu thị. Và xét về chức năng biểu thị quan hệ, mỗi hư từ là một đơn vị duy nhất, không thể thay thế, chứ không giống như các hình vị, vốn là những đơn vị có thể dùng chung cho nhiều từ và có thể bị thay thế (so sánh: singer [ca sĩ] / cooker [cái bếp] của tiếng Anh.
Thứ tư, từ là một loại đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ. Tính có sẵn của từ thể hiện ở chỗ chúng đã được tạo ra, được chấp nhận và được lưu giữ trong toàn thể cộng đồng ngôn ngữ, không phụ thuộc vào cá nhân những người sử dụng. Muốn sử dụng ngôn ngữ, người ta không phải tự mình tạo ra các từ, mà cần phải ghi nhớ chúng và tái hiện chúng đúng như chúng vẫn tồn tại cho toàn thể cộng đồng. Đối với những ngôn ngữ mà từ có những dạng thức tồn tại khác nhau, như các dạng thức cách hay thời trong tiếng Nga, tiếng Séc, tiếng Ba Lan chẳng hạn, thì các dạng thức đó của từ chỉ là những biến thể chức năng và người sử dụng các ngôn ngữ đó cũng phải ghi nhớ để tái hiện chúng như là những đơn vị có sẵn, chứ không ghi nhớ phần gốc của từ và phần biến thái của chúng một cách riêng rẽ, rồi khi sử dụng ngôn ngữ mới ghép chúng lại với nhau thành từ. Chẳng hạn, để có thể sử dụng được dạng thức worked của từ (to) work trong tiếng Anh, người ta không ghi nhớ work và ed riêng rẽ rồi mỗi khi giao tiếp lại kết hợp chúng với nhau, mà phải ghi nhớ và tái hiện toàn bộ dạng thức như là một chỉnh thể có sẵn. Điều này đã được chứng minh qua các công trình nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em Anh: Khi học nói, trẻ em ghi nhớ các dạng thức của từ như là những vật liệu có sẵn, nhưng đến khi nắm được ngôn ngữ ở một mức độ nhất định, chúng “sửa lại” ngôn ngữ cho đúng với hệ thống, dẫn đến những lỗi ngữ pháp, như thay vì nói went (đã đi) chúng lại nói goed cho đúng với phần lớn dạng thức quá khứ của động từ tiếng Anh.
Tính có sẵn là đặc trưng của từ. Các đơn vị khác thường không mang tính có sẵn. Âm vị và hình vị chỉ xuất hiện trong các từ, chứ không đứng độc lập. Câu thì tuy có thể đứng độc lập nhưng lại do các cá nhân tạo ra. Chính vì vậy, cùng một nội dung thông báo, người ta có thể diễn đạt bằng nhiều câu khác nhau. Chẳng hạn, cùng một nội dung: Nó đang ngủ say, ta có thể nói: Nó đang ngủ khì, hoặc Nó đang say giấc nồng. Với từ thì không thể như vậy. Để biểu thị một nội dung khái niệm: Động vật nuôi họ với hổ báo, nuôi để bắt chuột, người Việt chỉ có thể dùng từ mèo, chứ không thể dùng từ khác. Dĩ nhiên, ta phải loại trừ những trường hợp có biến thể phương ngữ, biến thể xã hội hay biến thể nguồn gốc (sẽ được đề cập đến ở phần sau). Như vậy, có thể nói, so với câu thì từ là đơn vị mang tính bắt buộc. Đó chính là do tính có sẵn của từ.
Từ những điều trình bầy trên đây, ta có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về từ như sau:

Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể dễ dàng tách khỏi chuỗi âm thanh lời nói, có cấu trúc hình thức chặt chẽ, có nội dung ý nghĩa hoàn chỉnh và được sử dụng như là những vật liệu có sẵn để tạo ra những đơn vị thông báo.

3. Các đơn vị tương đương từ

Trong ngôn ngữ, bên cạnh các từ, ta còn có thể nhận thấy một loạt những đơn vị tuy không phải là từ nhưng có tính chất và chức năng giống như các từ. Ta gọi đó là những đơn vị tương đương từ.

4.1. Trước hết, đó là các nhóm ngữ cú hay còn gọi là các cụm từ cố định. Các nhóm ngữ cú được hình thành trong lịch sử phát triển của một ngôn ngữ. Mỗi nhóm ngữ cú là một tổ hợp từ, trong đó từng từ riêng lẻ thường đã mất đi ý nghĩa vốn có của nó. Nghĩa của nhóm ngữ cú là nghĩa chung cho toàn bộ tổ hợp, chứ không phải là nghĩa của các từ cộng lại. Vì vậy, để có thể hiểu được và sử dụng được các nhóm ngữ cú, ta thường phải ghi nhớ chúng như là những chỉnh thể, cùng với nghĩa chung cho toàn bộ nhóm và khi sử dụng, ta không thể tuỳ tiện thay đổi tổ chức của chúng. Nói cách khác, nhóm ngữ cú có kết cấu chặt chẽ và ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của nhóm ngữ cú có thể tương đương với nghĩa của một từ, vì vậy ta có thể dùng chúng như những từ bình thường. Tuy nhiên, cũng có những nhóm ngữ cú mà cấu trúc và ý nghĩa rất giống với những nhóm từ tự do, nhưng đã được cố định hóa và được cộng đồng sử dụng như là những đơn vị có sẵn. Như vậy, các nhóm ngữ cú là những đơn vị ngôn ngữ được tạo ra và duy trì trong cộng đồng ngôn ngữ như là những đơn vị có sẵn, do vậy chúng không mất đi sau một hoạt động giao tiếp ngôn ngữ. Mọi thành viên trong cộng đồng đều phải ghi nhớ chúng như ghi nhớ các từ bình thường.

Trong các nhóm ngữ cú, người ta thường phân biệt hai loại:

a/ Thành ngữ

Đó là những tổ hợp từ có tính ổn định cao về tổ chức hình thức và nghĩa. Thành ngữ được tạo ra theo nhiều cách, nhưng thường có một đặc điểm chung là các từ tạo nên thành ngữ đã mất hẳn tính độc lập của chúng, vì thế ta thường không thể giải thích được lý do tại sao chúng được kết hợp với nhau, và không thể suy ra nghĩa của thành ngữ bằng cách tìm hiểu nghĩa của các từ hợp thành. Chẳng hạn, thành ngữ “mạt cưa, mướp đắng” có nghĩa là: ‘tay đáo để lại gặp tay đáo để khác,; nghĩa đó không thể suy ra từ nghĩa của các từ mạt cưa và mướp đắng, vốn là tên gọi của hai sự vật không có liên quan gì với nhau và lại càng không có liên quan gì với nghĩa của thành ngữ. Chính vì vậy, khi sử dụng một thành ngữ, người ta thường không để ý đến nghĩa của các từ cấu tạo nên nó mà chỉ nghĩ đến ý nghĩa chung của cả tổ hợp mà thôi. Và cũng chính vì không giải thích được lý do cấu tạo của thành ngữ mà người ta không thể tùy tiện thay đổi cấu tạo của chúng. Những tổ hợp từ như: mẹ tròn con vuông; lọt mắt xanh; nằm gai nếm mật, v.v. là những thành ngữ.

b/ Quán ngữ

Đó là những lối nói do sử dụng lâu ngày mà quen dần và trở lên ổn định về tổ chức hình thức và nghĩa. Khác với thành ngữ, trong quán ngữ, các từ vẫn còn giữ được tính độc lập tương đối của chúng, vì thế thường ta có thể suy ra nghĩa của quán ngữ bằng cách tìm hiểu ý nghĩa của các từ hợp thành. Nói chung, ta đều có thể giải thích lý do cấu tạo của quán ngữ. Chẳng hạn, quán ngữ “đẹp như tiên” là quán ngữ so sánh. Dựa vào ý nghĩa của các từ trong quán ngữ này, ta có thể hiểu ngay được ý nghĩa của nó. Do hiểu được ý nghĩa cấu tạo của quán ngữ nên đôi khi, ta có thể thay đổi chút ít thành phần cấu tạo của chúng. Chẳng hạn, ta có thể mở rộng quán ngữ trên thêm một chút thành “đẹp như tiên sa”, hay quán ngữ “khỏe như voi” có thể thay bằng “khoẻ như trâu”. Tất cả những lối nói như: nói có bàn thờ, khôn nhà dại chợ, lừ đừ như từ vào đền, khoẻ như voi, v.v. đều là những quán ngữ. Như vậy, có thể thấy rằng mối quan hệ giữa các từ tạo thành quán ngữ không vững chắc như trong thành ngữ, do đó nhiều khi các quán ngữ được sử dụng giống như các cụm từ tự do.

c/ Từ phức.

Trong mỗi ngôn ngữ, ta còn có thể nhận thấy rằng, có một số từ luôn luôn được một yếu tố cú pháp cố định đi kèm. Khi sử dụng những từ như vậy, ta không thể tuỳ tiện thay đổi hay gạt bỏ yếu tố cú pháp ấy đi. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, có từ ‘ghen’ được dùng với hai nghĩa: 1/ ghen tị và 2/ ghen tuông. Ở nghĩa thứ nhất, từ này bao giờ cũng được sử dụng kèm với giới từ ‘với’ (‘ghen với ai’), còn ở nghĩa thứ hai, nó chỉ được dùng một mình. Khi sử dụng từ này với nghĩa thứ nhất, người Việt không thể tự ý gạt bỏ giới từ ‘với’ hay thay vào đó một yếu tố khác. Vì vậy, có thể nói rằng: ‘ghen với…’ là một kết cấu vững chắc và hoàn chỉnh; nó được sử dụng như là một đơn vị có sẵn. Loại đơn vị này ngôn ngữ nào cũng có, ví dụ như look at (nhìn), look for (tìm) trong tiếng Anh chẳng hạn. Ta gọi đó là những từ phức. Muốn sử dụng đúng các từ phức, người ta phải ghi nhớ chúng như là những đơn vị có sẵn.
d/ Cuối cùng, trong mỗi ngôn ngữ, đều có tồn tại một số tổ hợp từ dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng hay khái niệm mà trong ngôn ngữ đó không có hình thức từ thích hợp đứng làm cái đại diện vật chất, ví dụ như: ‘máy bay lên thẳng’, ‘trường đại học tổng hợp’ trong tiếng Việt, ‘forget-me-not’ (hoa lưu li), ‘organ-grinder’ (người chơi đàn quay) trong tiếng Anh, hay ‘moxkitnaja xetka’ (cái màn), ‘p’es’ernưi trelov’ek’ (người ở hang) trong tiếng Nga. Các nhóm từ này bao giờ cũng hoạt động như là những chỉnh thể có sẵn và hoàn toàn tương ứng với từ về mặt chức năng, do đó hoàn toàn có thể xem chúng như là những đơn vị tương đương từ và cũng có thể gọi chúng là những từ phức, hoặc là đơn vị trung gian như một số nhà nghiên cứu đề nghị.

Từ vựng

Toàn bộ vốn từ và các đơn vị tương đương từ như vừa trình bày ở trên làm thành vốn từ vựng của ngôn ngữ. Như vậy, từ vựng không chỉ bao gồm một loại đơn vị thuần nhất mà gồm nhiều loại đơn vị khác nhau. Tuy nhiên, đặc tính chung của các loại đơn vị từ vựng là có cấu trúc bền vững, ý nghĩa hoàn chỉnh, có thể tách ra khỏi chuỗi lời nói để đứng độc lập và có thể trực tiếp kết hợp với nhau theo những quy tắc nhất định thành các đơn vị thông báo. Về cơ bản, các đơn vị từ vựng là những đơn vị lớn nhất mà các thành viên của một cộng đồng ngôn ngữ buộc phải ghi nhớ để sử dụng trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ. Các đơn vị lớn hơn, như câu chẳng hạn, hoàn toàn không có tính bắt buộc về mặt ghi nhớ như vậy; chúng ta chỉ cần ghi nhớ các quy tắc tổ hợp các đơn vị từ vựng thành câu là đủ. Chính vì vậy, số lượng câu mà một cộng đồng có thể sản sinh ra là vô cùng, trong khi từ vựng là một tập hợp hữu hạn các đơn vị.

Mặt khác, như đã nói ở trên, các đơn vị nhỏ hơn từ không có khả năng trực tiếp kết hợp với nhau thành những đơn vị thông báo: âm vị chỉ có thể kết hợp với nhau thành hình vị, hình vị chỉ có thể kết hợp với nhau thành từ. Nói cách khác, các đơn vị nhỏ hơn từ không có khả năng kết hợp trực tiếp với nhau thành những đơn vị lớn hơn từ, ví dụ như cụm từ và câu. Vậy, từ là đơn vị nhỏ nhất có khả năng kết hợp trực tiếp với nhau thành các đơn vị thông báo.

Từ những điều trình bày ở trên, ta có thể đưa ra một định nghĩa chung về từ vựng như sau:

Từ vựng của một ngôn ngữ là tập hợp tất cả những đơn vị ngôn ngữ nào có cấu trúc hình thức bền vững, có nghĩa hoàn chỉnh, lớn nhất về tính bắt buộc ghi nhớ đối với các thành viên của cộng đồng và nhỏ nhất về khả năng trực tiếp kết hợp với nhau để tạo ra các đơn vị thông báo.

______________________________________________

Posted in Nhập môn ngôn ngữ học, Từ vựng học | Thẻ: , , , , , , , , , , , | 1 Comment »