TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Posts Tagged ‘thời tuyệt đối’

Phương tiện biểu thị nghĩa ngữ pháp (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Năm 11, 2011

7. Các phương tiện thể hiện ý nghĩa thời

Các từ dùng để thể hiện ý nghĩa thời trong tiếng Việt gọi là phó từ chỉ thời gian.

– Phó từ chỉ thời gian là các từ: đã, chưa, đang, sẽ, vừa, mới, sắp, từng. (xem lại phần Phụ từ).

Trong tiếng Việt, vấn đề ‘thời’ hiện chưa được giải quyết một cách thống nhất. Có quan điểm cho rằng tiếng Việt không có phạm trù ‘thời’ mà chỉ có phạm trù ‘thể’ (ví dụ: Cao Xuân Hạo và một số người khác). Thực ra, vấn đề này không đơn giản như vậy. Có thể quan niệm rằng trong tiếng Việt có thời tuyệt đốithời tương đối, nên các phó từ nêu trên có thể được sử dụng để biểu thị ‘thời tuyệt đối’ hoặc ‘thời tương đối’. Vì vậy, khi sử dụng, cần phải xác định điểm quy chiếu để phân biệt rõ thời gian của các sự kiện hay quá trình. Ví dụ:

(i) Thời tuyệt đối:
+ Tôi học tiếng Việt.
+ Tôi đã học tiếng Việt sáu tháng.
+ Tôi sẽ học tiếng Việt một năm.

(ii) Thời tương đối:

* Hiện tại tương đối:
+ Tôi đang học tiếng Việt thì nó gọi.
+ Ngày mai, vào giờ này, tôi còn đang học tiếng Việt.
+ Hồi ấy, tôi đang học tiếng Việt ở Hà Nội.

* Quá khứ tương đối:
+ Bởi vì tôi đã bắt đầu đi học sớm hơn, cho nên khi anh Cán còn đang học đại học thì tôi đã đương làm ở Viện rồi.
+ Ngày mai, vào giờ này thì anh ấy đã đến Nội Bài rồi.
+ Trong nhà đã ngủ yên cả rồi.

* Tương lai tương đối:
+ Lúc ấy, nó nói với tôi: nếu có điều kiện nó sẽ trở về thăm quê hương.
+ Khi không còn ai trong phòng, nó mới nói sẽ không học tiếp nữa.

8. Các hư từ biểu thị ý nghĩa kết quả của hành động/hoạt động

– Để chỉ kết quả của hành động/hoạt động (hoàn thành hay chưa hoàn thành), tiếng Việt chủ yếu dùng các phó từ: xong, rồi, chưa.

+ Từ ‘xong’ và ‘rồi’ vừa biểu thị ý nghĩa ‘kết quả’ vừa biểu thị ý nghĩa ‘thời’, do đó chúng có thể được sử dụng một mình hoặc dùng cùng với các từ chỉ ‘thời’ hay được kết hợp với nhau thành cặp. Ví dụ:
1/ Giáo sư đã đến./ Giáo sư đến rồi./ Giáo sư đã đến rồi.
2/ Chiều nay tôi dịch xong./ Chiều nay tôi sẽ dịch xong./ Chiều nay tôi sẽ phải dịch xong rồi.
3/ Tôi từng ăn thử món này./ Tôi ăn thử món này rồi./ Tôi đã từng ăn thử món này rồi.
4/ Tôi chưa làm./ Tôi chưa làm xong./Tôi sắp làm xong. (Trong các ví dụ này, ý nghĩa các câu khác nhau).

+ Cũng có khi từ ‘xong’, ‘rồi’, ‘chưa’ chỉ biểu thị ý nghĩa kết quả (hoàn thành) mà không biểu thị ý nghĩ thời. Trong những trường hợp này, chúng thường biểu thị trạng thái của sự vật hoặc hiện tượng. Ví dụ:
1/ Công việc chưa làm xong./Công việc làm xong rồi.
2/ Cơm chưa chín./ Cơm chín rồi.
3/ Nó chưa ngủ./ Nó ngủ rồi.

– Ngoài ra, trong tiếng Việt, các phó từ: mất, được, ra, cũng được sử dụng để biểu thị kết quả của hành động/hoạt động. Các phó từ này cũng có thể được sử dụng kết hợp với phó từ ‘rồi’ đã nói ở trên. Ví dụ:
1/ Anh Lực quên mất em rồi.
2/ Tôi hiểu được câu này rồi.
3/ Em tìm ra câu trả lời rồi.

+ Từ ‘mất’, ngoài ý nghĩa ‘kết quả’ còn thể hiện sự đánh giá/thái độ đối với ‘kết quả’ đó, thường thì đó là sự đánh giá tiêu cực. Ví dụ, so sánh:
1/ Tôi quên anh ấy rồi./ Xuýt nữa tôi quên mất anh ấy.
2/ Mèo ăn đĩa cá rồi. 2/ Sao không đậy, để mèo ăn mất đĩa cá, hả?

+ Phó từ ‘ra’ và ‘được’ tuy có thể thay thế nhau nhưng ‘ra’ chủ yếu dùng để biểu thị kết quả của những hoạt động trí óc (nhận thức) nên thường dùng với những động từ biểu thị hoạt động tâm lí như: nghĩ, tìm (ví dụ: Tìm ra câu trả lời), hiểu, phát hiện…, còn ‘được’ dùng để biểu thị kết quả của các hoạt động nói chung kèm theo nghĩa ‘khả năng’ nên có thể sử dụng với tất cả các động từ bao hàm nghĩa „khả năng” Ví dụ:
1/ Tôi nghĩ ra một cách để đuổi khéo nó.
2/ Phải mất hai năm công an mới bắt được thủ phạm vụ giết người cướp của.

Ghi chú:

* Cần nhớ lại rằng, phó từ ‘rồi’ khi được dùng với một số động từ chỉ hoạt động tâm lí/quá trình sẽ thay đổi ý nghĩa và biểu thị nghĩa ‘bắt đầu’ chứ không phải là nghĩa ‘kết quả’. Ví dụ:

Từ nay tôi tin anh rồi.

* Ngoài các phó từ chỉ kết quả trên đây, tiếng Việt còn có từ ‘thấy’ cũng dùng để chỉ kết quả. Tuy nhiên, ‘thấy’ không phải là hư từ theo đúng nghĩa. Từ này ngoài ý nghĩa ‘kết quả’ còn bao hàm nét nghĩa ‘nhận biết bằng giác quan, vì vậy có thể coi đây là yếu tố cấu tạo từ mới. Ví dụ:
1/ Nói to lên chút nữa, tôi không nghe thấy gì cả.
2/ Theo cánh tay anh ấy chỉ tôi mới nhìn thấy chiếc thuyền.

____________________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , | Leave a Comment »

Ý nghĩa ngữ pháp của từ (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tám 21, 2010

3.2.4. Phạm trù ngôi

Trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ, ta thường phân biệt 3 ‘ngôi’ hay ‘vai giao tiếp’:

Ngôi thứ nhất: người nói
Ngôi thứ hai: người nghe
Ngôi thứ ba: đối tượng được đề cập tới

Một trong ba ngôi đó có thể là chủ thể của hành động, hoạt động hay trạng thái được biểu thị bằng những động từ tương ứng. Để thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể của hành động và hành động, các ngôn ngữ có thể kết hợp đại từ nhân xưng với động từ theo một trật tự nhất định (ví dụ trong tiếng Việt: “Anh ấy học tiếng Anh”), hoặc sự biến đổi dạng thức của động từ. Ví dụ trong tiếng Nga: động từ ‘idti’ (đi) được biến đổi tương ứng theo các ngôi sau:

(Ja) idu (tôi đi) (mư) id’iom
(tư) id’ios’ (anh đi) (vư) id’iot’e
(on) id’iot (nó đi) (oni) idut

Sự biến đổi dạng thức của động từ theo ngôi của chủ thể hành động hay hoạt động chính là ý nghĩa ngôi và sự khái quát hoá ý nghĩa ngôi đó gọi là phạm trù ngôi. Như vậy, phạm trù ngôi là phạm trù dùng để thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể hành động và hành động: chủ thể ở ngôi nào thì động từ biểu thị hành động cũng được biến đổi theo ngôi đó. Tuy nhiên cấu trúc của phạm trù ngôi trong các ngôn ngữ có thể rất khác nhau. Ở một số ngôn ngữ, như tiếng Nga hay tiếng Ba Lan, khi biểu thị hành động hay hoạt động đang diễn ra ở thời điểm nói năng, người ta phân biệt ít nhất 6 dạng thức khác nhau (tương ứng với 3 ngôi và 2 số) của động từ. Trong khi đó thì ở một số ngôn ngữ khác, số lượng các dạng thức của động từ có thể ít hơn, ví dụ: Trong tiếng Anh, động từ ‘read’ (đọc) chỉ có 2 dạng thức ngôi khác nhau: ‘read’ (chung cho các ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba số nhiều và ‘reads’ (dùng cho ngôi thứ ba số ít). Trong tiếng Pháp, động từ ‘parler’ (nói) xét về mặt chữ viết thì có 5 dạng thức khác nhau, nhưng xét về mặt âm thanh thì chỉ phân biệt được 3 dạng thức mà thôi, so sánh:
je parle nous parlons
tu parles vous parlez
il parle ils parlent

Như vậy, một số dạng thức của động từ thể hiện không phải chỉ một ngôi mà có thể hai hay nhiều ngôi khác nhau. Hiện tượng này có thể còn có một lý do khác: chuyển ngôi để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói. Chẳng hạn trong tiếng Nga, dạng thức ngôi thứ hai số nhiều của động từ có thể được dùng để thể hiện ngôi thứ hai số ít, khi người ta muốn bầy tỏ sự tôn trọng đối với người nghe; hay ở một số ngôn ngữ khác, dạng thức ngôi thứ ba của động từ có thể được dùng thay cho ngôi thứ hai (ví dụ trong tiếng Ba Lan, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp), với mục đích biểu thị sự kính trọng hoặc quan hệ xã hội giữa người nói và người nghe.

3.2.5. Phạm trù thời

Thông thường, các sự kiện đều diễn ra trên dòng thời gian. Để định vị các sự kiện trên dòng thời gian ấy, các ngôn ngữ thường lấy một thời điểm nào đó làm chuẩn và các sự kiện được xác định trên cơ sở của thời điểm chuẩn đó. Ta gọi đó là thời của hành động, hoạt động hay trạng thái. Nói chung, các ngôn ngữ thường lấy thời điểm nói làm chuẩn và do đó, thường phân biệt ba thời cơ bản. Đó là:

Thời hiện tại, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra cùng với thời điểm nói;
Thời quá khứ, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra trước thời điểm nói;
Thời tương lai, dùng để biểu thị những sự kiện diễn ra sau thời điểm nói.

Sự phân biệt thời như vậy gọi là thời tuyệt đối. Để biểu thị các thời tuyệt đối, các ngôn ngữ có thể sử dụng những phương thức khác nhau. Trong tiếng Việt, ta thường dùng từ “đang” để biểu thị thời hiện tại, từ “đã” để biểu thị thời quá khứ và từ “sẽ” để biểu thị thời tương lai. Song trong nhiều ngôn ngữ, người ta lại thể hiện các mối quan hệ này bằng cách biến đổi dạng thức của động từ: động từ biểu thị hành động, hoạt động hay trạng thái diễn ra ở thời điểm nào thì nó sẽ được biến đổi theo những hệ biến thái đặc trưng cho thời đó. Ví dụ: Động từ ‘pixat’ (viết) trong tiếng Nga được biến đổi qua các thời tuyệt đối như sau:

thời hiện tại thời quá khứ thời tương lai

ja pisu ja pixal ja budu pixat’
tư pises’ tư pixal tư bud’es’ pixat’
on piset on pixal on bud’et pixat’, v.v…

Sự biến đổi dạng thức của động từ để thể hiện mối quan hệ giữa thời gian xảy ra hành động và thời điểm nói như trên được gọi là ý nghĩa thời hoặc phạm trù thời. Như vậy, phạm trù thời là phạm trù ngữ pháp của động từ. Do đó, trong những ngôn ngữ như tiếng Việt, động từ không biến đổi dạng thức để thể hiện ý nghĩa thời cho nên không có phạm trù thời theo đúng nghĩa của nó.

Trong thực tế, ngoài thời tuyệt đối, các ngôn ngữ còn phân biệt các thời tương đối. Thời tương đối được xác định không phải trên cơ sở của mối quan hệ giữa thời gian của sự kiện đang được đề cập tới trong phát ngôn và thời điểm nói mà là trên cơ sở mối quan hệ với một thời tuyệt đối nào đấy đang được sử dụng trong phát ngôn (tức là thời hiện tại, thời quá khứ hoặc thời tương lai). Khi ấy, thời hiện tại biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra đồng thời với một hành động hay hoạt động khác, thời quá khứ biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra trước một hành động khác, còn thời tương lai thì biểu thị hành động hay hoạt động diễn ra sau một hành động hay hoạt động khác. Chẳng hạn, trong câu tiếng Anh: “He said he would come” thì ‘would come’ là thời tương lai tương đối vì nó biểu thị hành động xảy ra sau hành động ‘said’ (đã nói), tức là thể hiện mối quan hệ giữa hai hành động trong phát ngôn, chứ không phải là mối quan hệ giữa thời gian xảy ra hành động và thời điểm nói. Sự phân biệt các thời tương đối bằng những dạng thức khác nhau của động từ làm cho số lượng các thời trong các ngôn ngữ không giống nhau. Chẳng hạn các thứ tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Anh có nhiều thời hơn so với những thứ tiếng như Nga, Séc hay Ba Lan. Ngược lại, cũng có những ngôn ngữ lại không khai thác hết khả năng lý thuyết của phạm trù thời, và chỉ phân biệt hai thời mà thôi (ví dụ: tiếng Gốt hay tiếng Ả Rập).

(còn nữa)
________________________________________________

Posted in Ngữ pháp học, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »