TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Posts Tagged ‘cái biểu vật’

Ngữ nghĩa học – khái niệm và phạm vi nghiên cứu (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Sáu 10, 2012

Lê Đình Tư

 

2. Ý nghĩa – đối tượng nghiên cứu của ngữ nghĩa học

Như vậy, có thể thấy rằng nghĩa học ngôn ngữ học (từ đây trở đi sẽ được gọi là ngữ nghĩa học) là một ngành khoa học nghiên cứu về ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Tuy nhiên, như có thể thấy bên trên, cái được gọi là ‘ý nghĩa’ là một đối tượng không dễ nắm bắt, bởi tính trừu tượng, đa diện và đa cấp của nó. Trong ‘ý nghĩa’,  ta cũng có thể nhận thấy sự có mặt của những mối quan hệ phức tạp giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, cái xã hội và cái cá nhân, cái phổ niệm và cái dân tộc. Ý nghĩa là sự tổng hòa của nhiều loại quan hệ: quan hệ giữa sự vật/hiện tương và một chuối âm thanh/chữ viết nào đó; quan hệ giữa người nói và người nghe; quan hệ giữa con người và xã hội, quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa…, và cả quan hệ giữa ngôn ngữ với ngôn ngữ (hay quan hệ liên ngôn ngữ). Mạng lưới các quan hệ này làm cho mặt ý nghĩa của ngôn ngữ trở nên rất khó định nghĩa một cách chắc chắn và nhất quán. Ý nghĩa sẽ được định nghĩa (nếu có thể nêu được định nghĩa) theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào góc độ quan sát: là sự vật, nếu được xem xét trong quan hệ giữa từ và sự vật, là khái niệm, nếu được xem xét trong quan hệ với quá trình nhận thức hiện thực, là thái độ/ tình cảm, nếu được xem xét trong quan hệ giữa các vai giao tiếp, v.v. (xem thêm bên dưới). Đây chính là nguyên nhân khiến cho ‘ý nghĩa’, mặc dù đã được các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà triết học, nghiền ngẫm và tìm hiểu từ thời Cổ đại đến nay, vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng và trọn vẹn.

Với bản chất phức tạp và đa diện của nó, ‘ý nghĩa’ được quan tâm nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, nhưng nhiều khi rất khó vạch được ranh giới rõ ràng giữa những ‘’ý nghĩa’ được lấy làm đối tượng nghiên cứu ở những lĩnh vực khoa học khác nhau đó.

Như trong triết học chẳng hạn, ý nghĩa ở đây từng được coi là cái tương ứng nằm ngoài ngôn ngữ của một đơn vị ngôn ngữ, hay nói cách khác, ý nghĩa chính là mối quan hệ giữa mặt biểu hiện của ngôn ngữ và hiện tượng bên ngoài nó. Đây được gọi là ‘quan niệm dựa vào vật quy chiếu’ (ví dụ: Arystoteles). Quan niệm coi ý nghĩa là sự vật hoặc các đặc trưng của sự vật chính là quan niệm sơ đẳng nhất về ý nghĩa của từ. Theo quan niệm này thì từ gợi ra sự vật, thay thế cho sự vật. Điều đó có nghĩa là ý nghĩa của từ chính là bản thân sự vật hoặc sự quy chiếu vào sự vật. Quan điểm như vậy cũng được J.S. Mill (1843) nêu ra, khi ông khẳng định rằng đối tượng biểu đạt của các phát ngôn là bản thân hiện thực. Trên cơ sở đó, ông quan tâm nghiên cứu về mối quan hệ giữa các tên gọi của các sự vật và sự biểu đạt các sự vật. Tuy nhiên, ông có phân biệt các kiểu tên gọi xét về cách thức chúng liên hệ với sự vật được gọi tên, mà phải kể trước tiên là kiểu tên gọi không chỉ biểu đạt sự vật mà còn hàm chỉ (connotate) những đặc điểm nhất định của đối tượng được biểu đạt. Ví dụ, những từ như: ‘người’, ‘chó’, ‘bàn’, ‘sông’, v.v. không chỉ biểu đạt các đối tượng được gọi tên ở đây mà còn hàm chỉ cả một số thuộc tính của chúng, tức là những đặc điểm quyết định về bản chất của người, chó hay bàn, sông, v.v. Quan niệm của Mill được các nhà triết học sau này kế tục và phát triển, nhờ đó mà nó giữ một vị trí ổn định trong nghĩa học lô gích và ngữ nghĩa học. Người ta tiếp tục chính xác hóa thêm các khái niệm: ‘sự quy chiếu’ (referencja/odniesienie) được hiểu là những thuộc tính của một tên gọi được sử dụng, còn ‘vật quy chiếu’ (referent) là sự vật/đối tượng mà tên gọi được quy chiếu vào; ‘sự biểu vật’ (denotacja) và ‘cái biểu vật’(denotat) được dùng để chỉ mối quan hệ giữa tên gọi và lớp sự vật hoặc là sự vật đại diện cho lớp sự vật mà tên gọi có thể được quy chiếu vào. Chẳng hạn, từ ‘chó’ có nội dung (ý nghĩa) là tập hợp những nét đặc trưng của các con chó (gọi chung là ‘cẩu tính’), có ‘cái biểu vật’ là toàn bộ lớp sự vật ‘các con chó’ (hoặc một đại diện điển hình của chúng), ví dụ như trong câu: „Chó là con vật trung thành”, và có ‘vật quy chiếu’ là một con chó cụ thể nào đó, ví dụ như trong câu: „Con chó của cậu dễ thương quá!”. (Những thuật ngữ này hiện nay trong tiếng Việt đang được dịch khác nhau).

Cũng có một quan điểm triết học khác, mang tính ngôn ngữ học nhiều hơn, cho rằng ý nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ là mối quan hệ giữa nó với các đơn vị ngôn ngữ khác. Đó là quan điểm đồng nhất ý nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ với cách sử dụng nó. Dòng quan điểm này được gọi là ‘quan niệm không dựa vào vật quy chiếu’ (ví dụ: trường phái triết học phân tích Oxford). Những người theo dòng quan điểm này thường lấy việc miêu tả ý nghĩa của câu, thậm chí toàn bộ lời phát biểu làm cơ sở để từ đó xác định ý nghĩa của các từ như là loại ý nghĩa thứ phát.

Dẫu vậy, xu hướng hiểu ý nghĩa theo góc độ tâm lý học trong triết học vẫn chiếm ưu thế vượt trội, bởi vì ý nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ ở đây thường được hiểu như là những ý niệm nằm trong đầu người nói hay những hình ảnh (tưởng tượng) hoặc những ấn tượng về sự vật được gọi tên.  Chẳng hạn, vào thời Trung cổ, ý nghĩa thường được hiểu là ’khái niệm’(và do đó có tên gọi chủ nghĩa khái niệm- konceptualizm), và chính trên cái nền của những cuộc tranh cãi xoay quanh ‘khái niệm’ đã hình thành nên những triết thuyết khác nhau: sớm hơn thì có thuyết duy thực (realizm), thuyết duy danh (nominalizm), còn muộn hơn thì có thuyết liên tưởng (asocjacjonizm). Nhưng, có thể nói, cái dấu ấn tâm lý học đó biểu hiện rõ ràng nhất trong một sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa từ (kí hiệu) và ý nghĩa, thường được gọi là ‘tam giác ngữ nghĩa’, do Ogden và Richards (1923) đưa ra, và được trích dẫn cũng như diễn giải trong nhiều công trình nghiên cứu ngữ nghĩa học. Trong sơ đồ này, ý nghĩa được hiểu là khái niệm và được phân biệt với đối tượng được biểu đạt (tức ‘vật quy chiếu’).

Trong một cách quan niệm hẹp hơn, ý nghĩa của một tín hiệu ngôn ngữ chỉ còn là ‘sự ứng xử của con người’ khi phản ứng trước tín hiệu nghe được đó, bởi vì sự  ứng xử của con người được coi là chỉ báo khách quan duy nhất để hiểu các phát ngôn  (xem: Bloomfield 1935, Morris 1938 và Osgood 1957). Một ví dụ cổ điển: phát ngôn „Tôi đang đói.” gây ra ở người tiếp nhận (người nghe) phản ứng: ‘mang thức ăn đến’. Đây chính là quan niệm trong hành vi luận (behawioryzm), vốn đã có những ảnh hưởng rộng lớn không chỉ trong nghiên cứu ngữ nghĩa học mà còn cả trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác, mặc dầu bị nhiều ý kiến phê phán.

Những quan niệm triết-tâm lí học về ý nghĩa như nêu trên đã được áp dụng vào ngôn ngữ học nói chung và ngữ nghĩa học nói riêng. Điều đáng nói là lập trường của nhiều nhà ngôn ngữ học trong vấn đề bản chất của ý nghĩa rất gần với quan điểm của thuyết liên tưởng tâm lí học. Chẳng hạn, trong “Giáo trình…”  của mình, Saussure đã nêu lên tính chất hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ, trong đó mặt nội dung (tức ý nghĩa) của nó được ông quan niệm là ‘khái niệm’. Cách quan niệm này của Sausure sau này đã trở thành nền tảng lí luận cho những công trình nghiên cứu ngữ nghĩa học theo đường hướng cấu trúc luận. Còn trong những đường hướng nghiên cứu mới hơn, được gọi chung là ngôn ngữ học học tri nhận, quan niệm tâm lí học thậm chí đã trở thành tư tưởng chủ đạo, khi ngôn ngữ được coi là một bộ phận của cơ chế tâm lí con người và tính chất tâm lí của ý nghĩa luôn luôn được nhấn mạnh . Theo cách hiểu của các nhà tri nhận luận (ví dụ: G. Lakoff, Ch. Fillmore, R. Langacker) thì ý nghĩa là „cách thức mọi người hiểu các phát ngôn”. Với cách hiểu như vậy, thật khó có thể nêu lên một định nghĩa mang tính ngôn ngữ học thuần túy về ý nghĩa (xem thêm bên dưới).

Cho nên, có thể xem quan niệm ”ý nghĩa là mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ” trong ngôn ngữ học không chỉ đánh dấu một trào lưu nghiên cứu ngữ nghĩa học muốn thoát ra khỏi ảnh hưởng của cách tiếp cận triết-tâm lí học, mà còn biểu hiện một xu hướng muốn từ bỏ ý định tìm hiểu về bản chất của ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa được xác định chỉ nhờ vào việc nghiên cứu hai loại quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ: quan hệ tương đương (hay còn gọi là quan hệ kéo theo) và quan hệ mâu thuẫn, có nghĩa là muốn xác định ý nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ thì cần phải xác định được những đơn vị tương đương và/ hoặc mâu thuẫn với nó. Hai đơn vị ngôn ngữ tương đương về nghĩa với nhau nếu chúng đưa tới những hệ luận (kết luận) giống hệt nhau. Ý nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ chính là cái thuộc tính chung cho tất cả những đơn vị tương đương nghĩa trong một ngôn ngữ. Cách định nghĩa ý nghĩa nhờ vào thuộc tính chung của các đơn vị ngôn ngữ đã được nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp nhận (xem chẳng hạn: Jakobson 1959) và rõ ràng đây là quan niệm đặc trưng cho đường hướng nghiên cứu ngữ nghĩa học không quan tâm đến khía cạnh bản thể luận của ‘ý nghĩa’, tức là đến việc xem xét xem bản chất của ‘ý nghĩa’là gì.

Phải đến cuối những năm 80 và trong những năm 90 của thế kỷ XX, vấn đề bản chất của ý nghĩa mới  được hâm nóng trở lại nhờ ngôn ngữ học tri nhận. Theo cách hiểu của các nhà tri nhận luận (ví dụ: Lakoff và Langacker), ý nghĩa  là „sự hình dung về thế giới” trong óc người nói, tức là tất cả những gì mà người nói liên hệ với các sự vật hay hiện tượng của thế giới khách quan khi sử dụng các từ. Chỉ có điều đó thường không phải là những đặc trưng quan yếu mà là những đặc trưng điển hình, thường xuyên được liên tưởng với sự vật/ hiện tượng. Nói cách khác, trong óc người nói tồn tại một bức tranh lược đồ về sự vật/ hiện tượng: đó là bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới là một bức tranh được hình thành trong ý thức của người nói nhờ những kinh nghiệm nhận thức và văn hóa. Bức tranh này được gắn kết trong ý thức của người nói với một biểu thức ngôn ngữ (một chuỗi âm thanh) và đó chính là ý nghĩa của biểu thức ngôn ngữ đó.

Với cách hiểu này, khái niệm ‘ý nghĩa’ được mở rộng thêm rất nhiều và càng trở nên mơ hồ, vì bản thân các khái niệm ‘bức tranh ngôn ngữ’và ‘biểu thức ngôn ngữ’ đều có nội hàm rất rộng và chưa bao giờ được xác định một cách rõ ràng.

_____________________________________________

Posted in Ngữ nghĩa học, Những vấn đề đại cương | Thẻ: , , , , , , , , , , | Leave a Comment »

Ý nghĩa của từ

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Sáu 12, 2010

LÊ Đình Tư
(Trích từ: Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân. Nhập môn ngôn ngữ học. Hà Nội, 2009)

1. ý nghĩa của từ là gì?

Khi nói đến ý nghĩa của từ, người ta thường nghĩ đến sự vật, hiện tượng hay nội dung khái niệm về sự vật, hiện tượng mà từ biểu thị. Nội dung khái niệm chính là sự phản ánh của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan vào trong từ. Chẳng hạn từ ‘nhà’ trong tiếng Việt vừa gợi ra cho ta ‘hình ảnh về những ngôi nhà’ trong thực tế khách quan, vừa gợi lên nội dung khái niệm về một ‘công trình xây dựng có mái che, có tường vách, dùng làm nơi ở hay nơi làm việc’.

Tuy nhiên, từ không chỉ có một chức năng là gọi tên sự vật, hiện tượng, hay biểu thị khái niệm. Từ còn có cả chức năng biểu thị thái độ, tình cảm của con người đối với hiện thực. Chẳng hạn, khi sử dụng các từ ‘hy sinh’ hay ‘toi mạng’, người Việt đều muốn tỏ thái độ, tình cảm (tích cực hoặc tiêu cực) của mình đối với đối tượng được nói tới và nhờ đó tác động đến thái độ, tình cảm của người nghe.

Ngoài ra, khi được dùng để đặt câu, từ còn có thêm một chức năng nữa: chức năng biểu thị quan hệ ngữ pháp, tức chức năng ngữ pháp. Chức năng ngữ pháp của từ liên quan đến khả năng kết hợp của từ với những từ khác trên dòng lời nói, và điều đó lại liên quan đến cấu trúc của từ. Chẳng hạn, khi được sử dụng trong lời nói, dạng thức từ ‘student’ (sinh viên) của tiếng Nga chỉ có thể làm ‘chủ thể ở số ít’ của động từ – đó là chức năng chủ ngữ, chứ không thể là đối tượng của hành động – tức là bổ ngữ trong câu. Điều đó được quy định bởi cấu trúc của nó: với cấu trúc hình thức ấy, nó luôn là: danh từ giống đực, số ít, nguyên cách và chỉ có thể giữ vai trò là chủ ngữ trong câu.

Do vậy, khi nói đến ý nghĩa của từ, ta cần phải hiểu rằng đó là một tập hợp của những thành phần ý nghĩa khác nhau, ứng với các chức năng khác nhau của từ.

Trong giới ngôn ngữ học, việc phân biệt các thành phần ý nghĩa của từ có thể không giống nhau. Thường thì người ta phân biệt hai thành phần ý nghĩa chủ yếu của từ: 1) ý nghĩa liên quan đến hiện thực ngoài ngôn ngữ (sự vật, hiện tượng hay khái niệm về sự vật, hiện tượng), và 2) ý nghĩa liên quan đến nội bộ hệ thống ngôn ngữ (khả năng kết hợp của từ). Song, cách phân biệt này nhiều khi không vạch được ranh giới rõ ràng cho các thành phần ý nghĩa của từ, vì hệ thống ngôn ngữ và hiện thực ngoài ngôn ngữ có liên quan mật thiết với nhau. Điều đó dẫn đến sự chồng chéo của các thành phần ý nghĩa. Bởi vậy, trong ngôn ngữ học hiện đại, người ta thường phân biệt bốn thành phần ý nghĩa của từ (ở đây phải tạm coi là từ chỉ có một nghĩa). Đó là: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm, ý nghĩa ngữ dụng ý nghĩa ngữ pháp.

2. Ý nghĩa biểu vật của từ

Ý nghĩa biểu vật còn được gọi là ý nghĩa sự vật hoặc ý nghĩa sở chỉ. Đây là thành phần ý nghĩa liên quan đến chức năng biểu thị sự vật/hiện tượng của từ. Ý nghĩa này phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan hoặc đặc trưng, tính chất… của chúng.

Tuy nhiên, đối tượng mà từ biểu thị lại không phải là một sự vật hay hiện tượng cụ thể, đơn lẻ nào của thực tế khách quan mà là một sự vật hay hiện tượng mang tính khái quát có thể đại diện cho các sự vật hay hiện tượng cùng loại. Thật vậy, từ ‘bàn’ trong tiếng Việt được dùng để chỉ mọi cái bàn có thể có trong thực tế khách quan, cho dù đó là bàn gỗ, bàn sắt, bàn vuông, bàn tròn, bàn ba chân, bàn bốn chân… . Từ ‘bàn’ chỉ có thể có được khả năng ấy, nếu nó không gắn với một cái bàn cụ thể nào cả. Nói cách khác, “cái bàn” mà từ ‘bàn’ trong tiếng Việt biểu thị là một cái bàn chung chung, một cái bàn đã được khái quát hoá để đưa vào ngôn ngữ. Nhờ đó, trong hoạt động giao tiếp, từ ‘bàn’ sẽ ứng được với tất cả những cái bàn cụ thể, bằng cách gợi lên trong tâm lý người sử dụng ngôn ngữ hình ảnh của những cái bàn mà họ muốn nói tới.

Do vậy, có thể nói: ý nghĩa biểu vật là hình ảnh chung nhất của tất cả các sự vật, hiện tượng cùng loại mà từ có thể gọi tên hay gợi ra. Hoặc cũng có thể nói theo cách khác: Sự tương ứng giữa từ và sự vật hay hiện tượng là sự tương ứng mang tính tổng loại (toàn loại) chứ không phải sự tương ứng theo kiểu một – một. Điều này cũng đúng với cả những trường hợp mà ý nghĩa biểu vật của từ là một sự vật duy nhất thuộc loại, ví dụ như trường hợp các từ mặt trời, mặt trăng hay thượng đế chẳng hạn, bởi lẽ ngay cả trong các trường hợp này, từ cũng loại bỏ mọi biểu hiện riêng biệt của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan, chỉ giữ lại những gì chung nhất, tức là những cái có tính chất tổng loại. Ví dụ: từ ‘mặt trăng’ chỉ biểu thị một mặt trăng chung chung, mà trong thực tế có thể ứng với ‘trăng non’, ‘trăng rằm’, ‘trăng mùa hạ’, ‘trăng mùa thu’, v.v…

Như vậy, ý nghĩa biểu vật của từ không phải là sự vật hay hiện tượng đúng như nó tồn tại trong thực tế khách quan mà là một sự vật, hiện tượng thuộc phạm trù ngôn ngữ, là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan vào trong ngôn ngữ. Cho nên, sự vật/hiện tượng do từ biểu thị được gọi là ‘cái biểu vật’ (‘denotat’). Cái biểu vật chính là hình ảnh chung nhất về sự vật/ hiện tượng mà từ gợi ra và có thể khác nhau giữa các ngôn ngữ, thậm chí giữa các cá nhân, do đặc điểm hiện thực của mỗi dân tộc hay của mỗi người. Ví dụ : Hình ảnh ‘cánh đồng’ trong tâm trí người Nga, người Pháp và người Việt không hoàn toàn giống nhau.

(còn nữa)
________________________________________________

Posted in Ngữ nghĩa từ vựng học, Nhập môn ngôn ngữ học | Thẻ: , , , , , , , , | Leave a Comment »