TRANG CHUYÊN NGÔN NGỮ HỌC

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Phương tiện biểu thị nghĩa ngữ pháp (tiếp theo)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Tư 17, 2011

5. Từ chỉ phương tiện và cách thức

Để chỉ quan hệ giữa hành động/hoạt động và phương tiện/cách thức của các hành động/hoạt động, tiếng Việt cũng dùng giới từ.

5.1. Giới từ bằng

– Giới từ bằng trước hết được dùng để biểu thị phương tiện hay cách thức của hành động hoặc hoạt động. Ví dụ:
1/ Chúng tôi sẽ đi bằng đường thủy.
2/ Ở nước chúng tôi, ít người biết ăn bằng dao và dĩa.
3/ Nó nhìn đời bằng nửa con mắt.

– Giới từ bằng còn dùng để biểu thị chất liệu dùng để làm ra sản phẩm. Ví dụ:
1/ Đây là túi làm bằng da cá sấu.
2/ Ghế này làm bằng đá.

– Tuy nhiên, trong tiếng Việt, giới từ bằng không luôn luôn mang tính bắt buộc. Nó thường được dùng khi cần nhấn mạnh vào phương tiện của hành động hay hoạt động, hoặc khi sự vắng mặt của giới từ có thể gây nên sự hiểu nhầm. Ví dụ:
1/ Ở đây chỉ có chị An biết nói tiếng Pháp.
2/ Không có phiên dịch, chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Anh.

Hoặc:
1/ Họ ngồi trên ghế đá.
2/ Đây là con ngựa bằng đá.

5.2. Các giới từ: với, cùng

– Các giới từ vớicùng là những giới từ dùng để biểu thị đối tượng cùng tham gia vào một hành động hay hoạt động nên có chức năng giống nhau. Do vậy, chúng có thể được dùng để thay thế cho nhau, hoặc kết hợp với nhau thành một cặp. Ví dụ, hãy so sánh:
Câu 1: Tôi sẽ đi với anh lên thành phố.
Câu 2: Tôi sẽ đi cùng anh lên thành phố.
Câu 3: Tôi sẽ đi cùng với anh lên thành phố.

– Các giới từ này còn có thể biểu thị quan hệ giữa sự vật hoặc hiện tượng và đặc điểm hay thuộc tính đi kèm của chúng. Trong những trường hợp này, với hoặc cùng với thường được sử dụng nhiều hơn cùng. Ví dụ:
Đến Nha Trang, họ thuê một căn phòng với đầy đủ tiện nghi để ở.
(Ít dùng hoặc không nên dùng cùng trong những trường hợp như thế này).

– Tuy nhiên, giữa hai giới từ này có sự khác biệt nhất định: với có thể dùng để chỉ cách thức hay điều kiện của hành động/hoạt động nhưng cùng không có khả năng này. So sánh:
Câu 1: Họ đang làm việc với quyết tâm cao để hoàn thành dự án. (+)
Câu 2: Họ đang làm việc cùng quyết tâm cao để hoàn thành dự án. (-)

6. Các từ biểu thị nghĩa địa điểm, hoàn cảnh

Để chỉ quan hệ giữa hành động/hoạt động và địa điểm, hoàn cảnh diễn ra của chúng, tiếng Việt dùng nhóm giới từ: ở, tại, trong, ngoài, trên, dưới, giữa.

– Hai giới từ tại có chức năng gần giống nhau (biểu thị nghĩa địa điểm nói chung), do đó có thể thay thế nhau trong hầu hết các trường hợp và có thể kết hợp với nhau thành giới từ ghép: ở tại. Ví dụ:
1/ Anh Phan làm việc nhà.
2/ Anh Phan làm việc tại nhà.
3/ Anh Phan làm việc ở tại nhà.

– Các giới từ trong, ngoài, trên, dưới, giữa biều thị nghĩa địa điểm/ hoàn cảnh kèm theo hướng quan sát. Do đó chúng còn có thể đi với các động từ để chỉ phương hướng. Ví dụ:
1/ Tàu hỏa đang chạy vào trong đường hầm.
2/ Mọi người không nên đi ra ngoài nhà khi trời bão.
3/ Tôi vừa thấy họ đi lên trên tầng hai.

Cần lưu ý:

+ Khi sử dụng các giới từ trong, ngoài, trên, dưới, cần phải căn cứ vào vị trí quan sát (vị trí tương đối của người nói/người nghe) hoặc thói quen tâm lí của người Việt. Ví dụ, so sánh:
1/ Con mèo đang ngủ ngoài sân./ Con mèo đang ngủ trong sân.
2/ Anh ấy đang bơi trên sông. / Anh ấy đang bơi dưới sông.
3/ Ngoài chợ có nhiều tin đồn rất lạ./ Trong chợ có có thể mua hàng rẻ hơn.

+ Tuy tại có chức năng giống nhau nhưng có thể kết hợp với các giới từ trong, ngoài, trên, dưới, giữa còn tại thường không có khả năng này. Cũng chính vì vậy, chỉ có thể có kết hợp ở tại mà không có kết hợp tại ở. Ví dụ:
Bình thường nói:
‘Anh Phan đang làm việc ở trong phòng.’
mà không nên nói: ‘Anh Phan làm việc tại trong phòng.’

hoặc có thể nói: ‘Đám cưới được tổ chức ở tại đình làng. ‘
Nhưng không thể nói: ‘Đám cưới được tổ chức tại ở đình làng.’

+ Giới từ còn có thể biểu thị quan hệ giữa hành động/ hoạt động và đối tượng của hành động/hoạt động trong khi tại không có chức năng này. Ví dụ:
Có thể nói: ‘Chúng tôi tin tưởngban lãnh đạo.’
nhưng không thể nói: ‘Chúng tôi tin tưởng tại ban lãnh đạo.’

_________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt, Từ loại | Thẻ: , , , , , | Leave a Comment »

Phương tiện biểu thị nghĩa ngữ pháp

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 31, 2011

Lê ĐìnhTư

2. Phương tiện biểu thị nghĩa sở hữu/sở thuộc

Để biểu thị nghĩa sở hữu hoặc sở thuộc, tiếng Việt dùng giới từ của

– Giới từ của dùng để biểu thị quan hệ sở thuộc giữa danh từ và danh từ.

Trong sử dụng, cần lưu ý những trường hợp sau:

+ Khi mối quan hệ này có thể được nhận biết một cách chắc chắn thì có thể lược bỏ của. Ví dụ:
cánh đồng của xã An Phú = cánh đồng xã An Phú.

+ Khi biểu thị quan hệ bộ phận-toàn thể hoặc quan hệ thân thuộc, giới từ của thường không được sử dụng, thậm chí nên lược bỏ, vì nếu dùng thì gây cảm giác nặng nề. Ví dụ:
miệng núi lửa; cánh máy bay; chồng tôi; bố tôi; bác tôi; anh tôi

+ Khi danh từ có nguồn gốc là một động từ hoặc tính từ thì sự có mặt của giới từ của thường mang tính bắt buộc. Ví dụ:

sự đánh giá của các ngài; cơn ghen của nó; niềm hạnh phúc của chúng tôi.

– Giới từ của còn dùng để biểu thị ý nghĩa nguồn gốc, khi đi với động từ, ví dụ:

Tôi mượn của anh Long quyển sách này;
Anh ấy mới vay của ngân hàng số tiền này.

hoặc ý nghĩa bị động của động từ, ví dụ:

Đây là xe ô tô của Nhật sản xuất. (= Đây là xe ô tô do Nhật Bản sản xuất)
Tiểu thuyết này (là) của chị Hà cho tôi mượn.

3. Phương tiện chỉ đối tượng gián tiếp

– Tiếng Việt không có phương tiện riêng để biểu thị quan hệ giữa động từ và đối tượng trực tiếp mà chỉ có phương tiện để biểu thị quan hệ giữa động từ và đối tượng gián tiếp của nó.

– Để chỉ đối tượng trực tiếp, tiếng Việt dùng trật tự từ: [V + O].

– Để chỉ đối tượng gián tiếp, tiếng Việt dùng các giới từ ‘cho’ và ‘về’/’đến’/’tới‘.

Mô hình chung là:[V + O1 + (Gt) + O2]

– Mô hình này chủ yếu dùng với giới từ cho . Vị trí của ‘cho’ thường ở sau từ chỉ đối tượng trực tiếp. Ví dụ:

1/ Sắp về nước, tôi phải mua quà cho gia đình.
2/ Cô ấy dạy nhạc cho con gái tôi.

Tuy nhiên, vị trí này có thể thay đổi, khi ấy ta có mô hình: [V+ (cho) + O2 + O1].
Ví dụ, so sánh:

1/ Họ giao tiền cho chúng tôi.
2/ Họ giao cho chúng tôi tiền.

– Với các giới từ ‘về’/’đến’/’tới’, mô hình có thể không đầy đủ. Ví dụ:

1/ Ông ấy đang viết sách về văn hóa Ba Lan. (mô hình đầy đủ)
2/ Ông ấy đang viết về văn hóa Ba Lan. (mô hình không đầy đủ)
3/ Chúng tôi đang nói tới những thay đổi gần đây. (mô hình không đầy đủ)

Mô hình không đầy đủ thường chỉ áp dụng với một số động từ, ví dụ: nói, nói chuyện, bàn, thảo luận, viết, nhắc, nhớ,

Cần lưu ý:

Đối tượng gián tiếp cũng có thể là động từ hoặc tính từ. Trong những trường hợp này, ta không dùng ‘cho’. Ví dụ:

1/ Họ bắt chúng tôi đi theo.
2/ Cô ấy chê anh nghèo.

(còn nữa)
______________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »

Phụ từ tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 25, 2011

Lê Đình Tư

1. Định từ

– Định từ là loại phụ từ chuyên đi kèm với danh từ để bổ sung ý nghĩa số lượng cho danh từ. Đó là các từ: những, các, mọi, mỗi, từng, một.

– Các định từ những, các được kết hợp với danh từ để tạo ra số nhiều. Sự khác biệt giữa các định từ này thể hiện ở chỗ: những dùng để tạo ra số nhiều hạn chế, còn các dùng để tạo ra số nhiều nói chung, ví dụ:
Tôi nhớ những đêm Hà Nội thơm nồng mùi hoa sữa.
Các nơi trên thế giới đang chuẩn bị đón năm mới.

Vì lý do đó, từ ‘những’ có thể kết hợp với các đại từ nghi vấn, còn từ ‘các’ thì không có khả năng đó. Ví dụ: Có thể nói những gì, những ai, nhưng không thể nói các gì, các ai.

– Định từ mọi cũng đi với danh từ để tạo ra số nhiều nhưng nó còn bao hàm nghĩa “tất cả”. Tuy nhiên, khác với đại từ tất cả, định từ ‘mọi’ kết hợp với danh từ ở cùng một vị trí giống như ‘những’ và ‘các’, còn vị trí của ‘tất cả’ là ở trước các định từ đó. Ví dụ: Có thể nói “Tất cả các người” hoặc “Tất cả những ngày”, nhưng không thể nói “Mọi các người” hay “Mọi những ngày”. Hơn nữa, từ ‘mọ’i luôn luôn chỉ số nhiều còn ‘tất cả’ có thể chỉ số ít. So sánh:
tất cả ngày/mọi ngày;
tất cả gia đình/mọi gia đình

Ngoài ra, từ ‘mọi’ còn có thể dùng để chỉ thời gian đã qua, ví dụ:
Tháng bảy năm nay trời không mưa nhiều như mọi năm
.
– Các từ mỗi, một, từng dùng để biểu thị số ít. ‘mỗi’ và ‘một’ có thể thay thế nhau trong một số trường hợp, do đó có thể đi với nhau thành cặp. Ví dụ, câu:
“Bà cụ có biết đâu rằng các cô gái non bây giờ mỗi năm mỗi mốt”
có thể viết thành: “Bà cụ có biết đâu rằng các cô gái non bây giờ mỗi năm một mốt”.

Sự khác nhau cơ bản giữa chúng là: ‘một’ chỉ biểu thị số ít tương đương với số từ “một” trong khi ‘mỗi’ còn dùng để biểu thị tính đơn lẻ hay cá thể của một sự vật trong tập hợp. So sánh:
Mỗi người phải chạy hai vòng quanh sân vận động.
Một người phải chạy hai vòng quanh sân vận động còn những người khác chỉ chạy một vòng.
– Từ từng có nét nghĩa giống với mỗi và một vì nó cũng dùng để biểu thị số ít nhưng nó còn bao hàm thêm nét nghĩa ‘diễn ra lần lượt’. Ví dụ:
Ông đến từng bàn, bắt tay từng người.

Cũng giống như ‘mỗi’, định từ ‘từng’ có thể đi với ‘một’ thành cặp từ ‘từng … một’ nhưng không bao giờ có thể thay thế nó bằng ‘một’. Ví dụ:
Từng ngày, mẹ thầm hỏi con đã đi những đâu.
Hãy kiểm tra từng nhà một!

2. Phó từ

– Phó từ là những phụ từ đi kèm với động từ và tính từ để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp, cách thức, mức độ hay kết quả của hành động, hoạt động.

– Phó từ chỉ thời gian là những phụ từ dùng để thể hiện ý nghĩa thời: đã, đang, sẽ, vừa, mới, sắp, từng. Điểm đặc biệt của các phó từ nhóm này là chúng không chỉ được dùng để thể hiện thời tuyệt đối mà còn có thể dùng để thể hiện thời tương đối. Vì vậy, khi sử dụng, cần phải có điểm quy chiếu để phân biệt rõ thời gian của các sự kiện hay đặc trưng tính chất. Ví dụ: Trong câu:
Ngày mai anh đã lên đường rồi à? Tôi nghĩ là 5 ngày nữa chứ!
thì đã biểu thị thời quá khứ tương đối (ngày mai) so với thời điểm quy chiếu trong tương lai: ‘5 ngày nữa’.

– Phó từ phủ định: không, chưa, chẳng(chả). Các phó từ không và chẳng thường đi với các động từ và tính từ để biểu thị ý nghĩa phủ định, nhưng chúng cũng có thể đi với các danh từ, đại từ để phủ định sự tồn tại của sự vật hay hiện tượng. Ví dụ:
– Nàng nhớ con nằm trong tổ lạnh
Không chăn, không nệm ấm, không màn.” (Tố Hữu)
Không gì có thể so sánh với vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long.
Không ai ở đây không biết nó.

– Phó từ tạo câu mệnh lệnh: hãy, đi, đừng, chớ. Trong khẩu ngữ, hãy thường được thay thế bằng hẵng. Ví dụ:
Chúng ta hẵng (hãy) nghỉ một chút đã!
Các phó từ đừngchớ dùng để bày tỏ lời yêu cầu hay khuyên bảo người nghe không thực hiện hoặc ngừng thực hiện một hành động nào đó. Ví dụ:
– Chị đừng đi chuyến tàu này!
Chớ đi ngày bảy chớ về ngày ba!
Khi cần làm rõ yêu cầu người nghe ngừng tiến hành một hành động, có thể kết hợp chúng với nữa. Ví dụ:
Đừng chơi với nó nữa!
Nói chung, đừngchớ có nghĩa giống nhau, tuy nhiên chớ thường có ý nghĩa răn đe nhiều hơn.

– Phó từ chỉ sự đồng nhất hay lặp đi lặp lại: cũng, đều, vẫn, còn, mải, lại, cứ, mãi, nữa.
+ cũng, đều, vẫn, còn, mải, lại, cứ là những phó từ đứng trước vị từ.
+ mãi, nữa là những phó từ đứng sau vị từ.
+ Riêng phó từ lại có thể đứng trước hoặc sau động từ.
+ Từ cũng có thể được thay thế bằng từ vẫn trong trường hợp nó được dùng để biểu thị sự mâu thuẫn hay trái ngược của sự kiện. Khi ấy chúng thường được kết hợp với các từ tình thái như: phải, bị, hoặc phó từ phủ định không. Ví dụ:
– Ốm gần chết cũng phải đi/ Ốm gần chết vẫn phải đi.
– Rẻ thế chứ rẻ nữa cũng không mua.
+ Từ cứ ngoài việc biểu thị sự không thay đổi của hành động, hoạt động hay trạng thái còn được dùng để biểu thị ý nghĩa cầu khiến. Ví dụ:
– Anh cứ nói với nó là tôi không cho vay!
+ Từ lại có thể được kết hợp với nữa khi đứng trước động từ để biểu thị sự tiếp tục của hành động, nhưng khi đi sau động từ để biểu thị sự lặp lại của hành động thì không thể kết hợp trực tiếp với nữa. Ví dụ: Có thể nói:
Họ lại uống nữa.
nhưng không thể nói: “Chị ấy đọc lại cuốn sách ấy nữa.” mà phải nói: “Chị ấy đọc lại cuốn sách ấy một lần nữa.”.
– Phó từ chỉ mức độ: rất, quá, lắm, khá, khí, hơi.
+ Các từ rất, khá, khí, hơi đều đứng trước các tính từ và động từ, còn quá, lắm thì đi sau.
+ Khi quá đứng trước tính từ hoặc động từ thì nó dùng để chỉ mức độ nhưng khi đi sau tính từ hoặc động từ, nó còn có nghĩa như một thán từ. Ví dụ:
Cái áo này quá chật.
Cảnh ở đây đẹp quá!
+ Trong một số trường hợp, các từ rất, quá, lắm có thể đi với danh từ, ví dụ:
rất sinh viên
quá lời
quá chén
lắm tiền
+ Hai phó từ khá khí thường có nghĩa giống nhau, nhưng ‘khí’ có phạm vi sử dụng hẹp hơn ‘khá’ và có thể có nghĩa tiêu cực (chê bai, mỉa mai), vì thế thường chỉ đi với những từ biểu thị ý nghĩa tiêu cực. Ví dụ: Có thể nói:
Thức ăn ở đây khá rẻ.
nhưng không nói: Thức ăn ở đây khí rẻ.
hoặc có thể nói:
Chị ấy khá đảm đang.
nhưng không thể nói: Chị ấy khí đảm đang.

– Phó từ chỉ kết quả: mất, được, ra.
Các phó từ này đều đứng sau vị từ để chỉ kết quả của hoạt động hay hành động. Ví dụ:
Xuýt nữa tôi quên mất.
Nó không đậy, nên chuột ăn mất hai cái bánh.
Tôi nghĩ ra một cách để đuổi khéo nó.
Phải mất hai năm trời công an mới tìm được thủ phạm vụ giết người cướp của.
– Phó từ chỉ hướng diễn biến: ra, lên, đi, lại.
Tất cả các phó từ này cũng đều đứng sau vị từ để chỉ hướng diễn biến của quá trình.
+ Các phó từ ra, lên dùng để chỉ hướng diễn biến tích cực hoặc được coi là tích cực. Ví dụ:
– Dạo này trông anh có vẻ béo lên một chút.
– Đi tắm biển về, ai cũng thấy khỏe ra.
+ Các phó từ đi, lại dùng để chỉ hướng diễn biến tíêu cực hoặc được coi là tiêu cực. Ví dụ:
– Khí hậu trái đất càng ngày càng xấu đi.
– Bị ốm hơn một tháng, người nó quắt lại.
– Phó từ biểu thị sự đánh giá bất lợi: cho, phải.
Các phó từ này đều đứng sau vị từ để biểu thị sự đánh giá tiêu cực đối với hàng động hay hoạt động. Ví dụ:
– Anh không nên làm thế, người ta cười cho.
– Ai cũng thương chị Lan lấy phải người chồng nghiện hút.

– Phó từ chỉ tần số: thường, hay, năng, thường xuyên, luôn, luôn luôn.
+ Các phó từ thường, hay, năng chỉ đứng trước vị từ. Riêng các phó từ thường và hay còn có thể kết hợp với nhau. Ví dụ:
Anh năng đi lại, mẹ thày em thương.
Về mùa này, Sa Pa hay có sương mù.
Những người hiền lành thường hay yếu đuối.
+ Phó từ luôn thường đứng trước vị từ để biểu thị tần số của hành động hay hoạt động. Khi đi sau vị từ, nó còn có thể biểu thị cách thức của hành động hay hoạt động. Ví dụ:
Ở châu Âu, tôi luôn cảm thấy khô miệng.
Tôi gặp nó luôn.
Không thấy ai, nó lấy luôn hai quả cam cho vào túi.
+ Các phó từ thường xuyênluôn luôn có thể đứng trước hoặc sau vị từ mà ý nghĩa không thay đổi. Ví dụ:
Họ thường xuyên vắng nhà./ Họ vắng nhà thường xuyên.
Người già luôn luôn mất ngủ./ Người già mất ngủ luôn luôn.
___________________________________________________________________
Câu hỏi và bài tập

1/ Hãy phân biệt định từ và phó từ. Từ từng có ý nghĩa gì khi đi với danh từ và động từ?
2/ Hãy phân biệt ý nghĩa của các cặp từ mỗi/một, mỗi/từng, tất cả/mọi và cho ví dụ minh họa.
3/ Các phó từ chỉ thời gian trong tiếng Việt có đặc điểm gì? Hãy tìm ví dụ để chứng minh rằng các từ đã, đang, sẽ, sắp vừa chỉ thời tuyệt đối vừa chỉ thời tương đối.
4/ Hãy phân biệt ý nghĩa của hai phó từ đừngchớ và cho ví dụ minh họa.
5/ Hãy chỉ ra những câu sai trong các câu dưới đây:
– Tình hình chuyển biến mau lẹ, từng ngày mỗi khác.
– Hôm qua, vào giờ này, anh Hải còn đang ngồi trên máy bay.
– Người em cứ đi mải đi mải cho đến khi gặp một con sông lớn.
– Chúng tôi nài nỉ quá, chị Vân đành hát lại nữa bài hát.
– Chị An là một người biết điều, không bao giờ nói quá lời.
– Cái xe này khí tốt mà rẻ, anh nên mua đi.
– Chị ấy thường xuyên đi chợ thế mà cũng mua phải của ôi.
– Ra viện, anh ấy hết sức tẩm bổ nhưng còn không béo lại chút nào.
6/ Hãy đặt câu với các phó từ sau đây:
– mất
– ra (chỉ hướng diễn biến)
– cho
– khí
– năng
– luôn
– phải
– ra (chỉ kết quả)

_____________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , , | Leave a Comment »

Số từ tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 17, 2011

Lê Đình Tư

1. Số từ chỉ số lượng

1.1 Số từ chỉ số lượng chính xác: Hệ thống số từ chỉ số lượng chính xác trong tiếng Việt có phần phức tạp vì tiếng Việt có sử dụng hai hệ thống số đếm chính xác: số đếm thuần Việtsố đếm Hán-Việt.

– Hệ thống số đếm chính xác thuần Việt được phân ra thành hai hệ thống nhỏ: số đếm chẵn số đếm lẻ.

+ Số đếm chẵn thuần Việt được sử dụng trong tất cả các trường hợp để chỉ số lượng chính xác, ví dụ: tám mét, bốn năm. Tiếng Việt sử dụng hệ thống số đếm cơ bản gồm 10 số nên muốn có số đếm lớn hơn 10, ta phối hợp các số đếm cơ bản với nhau, ví dụ: mười hai, ba hai (hoặc ba mươi hai), năm bảy (hoặc năm mươi bảy). Các số đếm từ hàng trăm trở đi được thiết lập bằng cách phối hợp 10 số cơ bản với các đơn vị trăm, nghìn, triệu, tỉ, ví dụ: hai trăm; một nghìn chín trăm; ba triệu hai trăm nghìn; bốn tỉ hai trăm năm mươi triệu bốn trăm năm muơi sáu nghìn (4.250.456.000).

Ngoài ra, để đếm các số từ một trăm trở lên, tiếng Việt còn dùng các danh từ lẻ hoặc linh để thay cho chữ ‘không’ ở hàng chục, ví dụ: một trăm lẻ một (=101), một nghìn không trăm linh một (=1001). Khi viết các số đếm, ta dùng các dấu chấm để ngăn cách các chữ số hàng nghìn, hàng triệu…

+ Tuy nhiên, tiếng Việt có sự biến đổi âm của các số lớn hơn 10 có hàng đơn vị là năm (=lăm), mười (=mươi), ví dụ: mười lăm, hai lăm, hai mươi, năm mươi, và ở các số 21 và 31, một được đổi thành mốt, ví dụ: hai mốt, ba mốt.

+ Đối với các chữ số hàng chục đầu 2 và đầu 3, có thể rút gọn chữ số mươi thành [m] và đọc nối với chữ số chỉ hàng chục, ví dụ: hăm hai (22), băm lăm (35).

+ Riêng số bốn còn có thêm dạng ‘tư’ nhưng thường không được sử dụng làm số đếm cơ bản mà chỉ sử dụng cho hàng đơn vị của các số đếm lớn hơn 20, ví dụ: ba tư (34), bốn tư (44), hoặc sử dụng kèm theo các từ khác để chỉ cách thức hay số thứ tự, ví dụ: chẻ , thứ tư, hàng tư.

+ Các số lẻ dưới 1 (gọi là số thập phân) có cách đọc: Số đếm chẵn + số thập phân, ví dụ: (một) phần hai (½), (ba) phần tư (¾), (sáu) phần nghìn (6/1000), hoặc: Số đếm cơ bản (không) + phảy + số lẻ, ví dụ: không phảy năm (=0,5), không phảy bảy lăm (=0,75). Riêng trường hợp 0,5 còn có cách đọc thông thường là (một) nửa, khi dùng với các danh từ, ví dụ: (một) nửa tài sản. Trong khẩu ngữ, người ta có thể đọc các số lẻ theo cách: chữ số thập phân + phảy, ví dụ: năm phảy (=0,5), ba phảy (=0,3).

Các số lẻ lớn hơn 1 có cách đếm: số đếm chẵn + rưỡi hoặc số thập phân, ví dụ: hai rưỡi (2,5), năm một phần ba (5⅓), hoặc: Số đếm chẵn + phảy + số lẻ, ví dụ: một phảy hai (=1,2), năm phảy sáu tám (=5,68).

– Số đếm Hán -Việt (nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập) chỉ được sử dụng hạn chế trong những trường hợp cần phải biểu thị sự trang trọng, trong một số thuật ngữ hay trong một số thành ngữ, quán ngữ, ví dụ: thơ song thất lục bát, ốm thập tử nhất sinh, nhóm Tam ca, hình tứ giác, hình tam giác, đàn tam thập lục, tam thập nhi lập, xe song mã, mâm ngũ quả, tam sao thất bản, bách bệnh, thiên binh vạn mã, thiên niên kỉ.

1.2 Số từ chỉ số lượng áng chừng: Đây là loại số từ dùng để chỉ những số lượng không chính xác.

– Tiếng Việt sử dụng 3 số từ áng chừng cơ bản: vài, dăm, mươi.

– Để tạo ra những số đếm áng chừng khác, người ta kết hợp chúng với các số đếm chính xác (số đếm chẵn), ví dụ: vài ba, dăm ba, dăm bảy, mươi lăm, vài mươi, dăm trăm, mươi nghìn. Riêng đối với số đếm áng chừng thập phân, trong khẩu ngữ, người ta có thể nói “phảy” hoặc “phần” thay cho con số thập phân, ví dụ: vài phảy/ vài phần (= vài phần mười), dăm phảy/dăm phần (= dăm phần mười), vài ba phảy (= vài ba phần mười).

– Gần với số đếm áng chừng, còn có 2 số đếm gộp là: chục (10), tá (12). Những số đếm này có thể khác nhau ở các địa phương, ví dụ: ở Nam Bộ một chục có thể là 12, thậm chí 14. Ta cũng có thể kết hợp các số đếm áng chừng với các số đếm gộp này, ví dụ: dăm chục ngàn người, vài tá bút, vài chục triệu đồng. Hiện nay, càng ngày càng ít được sử dụng.

2. Số thứ tự

– Tiếng Việt không có hệ thống số thứ tự riêng như ở nhiều ngôn ngữ khác. Số thứ tự trong tiếng Việt được tạo ra bằng cách thêm từ ‘thứ’ vào trước các số đếm, ví dụ: thứ hai, thứ năm, thứ mười bảy. Riêng đối với số thứ tự đầu tiên, người ta thường thay số ‘một’ thuần Việt bằng nhất Hán-Việt thành thứ nhất; đối với số thứ tự thứ hai, có thể thay số hai bằng nhì thành thứ nhì; đối với số thứ tự thứ bốn, có thể thay số bốn bằng thành thứ tư.

– Khi đi với một số danh từ và động từ, ta có thể bỏ ‘thứ’ mà vẫn thể hiện được số thứ tự, ví dụ: bàn một, hàng hai, dòng bốn, đứng nhất lớp, về nhì, nhưng không nói: con hai thay cho con thứ hai, hay bữa hai thay cho bữa thứ hai

Cần lưu ý rằng, trong những trường hợp cần phân biệt số đếm và số thứ tự, người ta đặt số từ chỉ thứ tự sau danh từ (hoặc động từ). So sánh: hai lớp/ lớp hai; năm bàn/bàn năm; chín ngày/ ngày chín; về nhì.

_______________________________________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , , | 10 Comments »

Đại từ chỉ định

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 3, 2011

Lê Đình Tư

1. Đại từ chỉ vị trí

Đó là những từ dùng để chỉ quan hệ không gian giữa người nói và đối tượng được nói tới trong phát ngôn. Đó là các đại từ: này, kia, kìa, ấy, đấy, đó, nọ, đây.

– Để chỉ quan hệ không gian, cần phải có vật quy chiếu. Vật quy chiếu có thể là người nói, người nghe hoặc một đối tượng được người nói, người nghe đề cập tới. Khi nói: “Tôi không thích cái áo sơ mi này.” thì đại từ ‘này’ cho ta biết cái áo sơ mi đang ở gần người nói, nhưng khi nói: “Tôi thích cái áo ấy hơn cái áo này” thì ‘ấy’ có thể biểu thị sự vật ở gần người nghe hơn hoặc một sự vật ở vị trí khác với sự vật đang được nói tới. Như vậy, các đại từ chỉ định dùng để định vị các sự vật trong quan hệ với người nói và người nghe hoặc trong quan hệ giữa các sự vật với nhau.

– Tuy nhiên, vị trí của các sự vật có thể được xác định rõ hoặc không xác định. Các đại từ đây, này, kia, đấy, đó, ấy vừa được dùng để chỉ vị trí xác định vừa để chỉ vị trí không xác định. Ví dụ, so sánh:

– Tôi đã đi trên con đường này./ Tôi đi đằng này một chút.
– Chị lấy cái áo này hay cái kia?/ Chị ấy hỏi chuyện hết người này đến người kia.
– Thằng đấy là con trai bác Ba./ Chị Hằng đi đâu nó theo đấy.
– Bên ấy có người ngày mai ra trận./ Tớ có cái ấy, cậu có muốn xem không?

Riêng đại từ nọ chỉ được dùng để chỉ vị trí không xác định. Ví dụ:

– Ở một trường nọ có sinh viên không làm được bài thi đã toan tự tử.
– Ở nhà, chị làm hết việc này việc nọ.

2. Đại từ chỉ thời gian

Đây là những từ dùng để chỉ quan hệ thời gian giữa các sự kiện được nói tới. Đó là các đại từ: này, nay, kia, kìa, ấy, đấy, đó, nọ, đây, bây giờ, bấy giờ, giờ.
Có thể thấy rằng nhiều đại từ chỉ vị trí đồng thời cũng là đại từ chỉ thời gian.

– Cũng giống như trường hợp chỉ vị trí, để chỉ quan hệ thời gian, ta cần phải có thời điểm quy chiếu. Thời điểm quy chiếu là thời điểm nói/ suy nghĩ/ hành động, hoặc một thời điểm nào đó đã hoặc đang được đề cập đến trong phát ngôn.

+ Từ đây, này, bây giờ, giờ được dùng để chỉ thời điểm nói/ suy nghĩ/ hành động (thường được gọi là ‘hiện tại’), ví dụ:

– Trước đây, đường phố Hà Nội không đông người như bây giờ.
– Lúc này anh ấy đang bối rối.

Từ đấy, ấy, đó, bấy giờ dùng để chỉ thời điểm quy chiếu của một sự kiện được nhắc tới trong quá khứ hoặc tương lai, ví dụ:

– Trước đấy ít lâu, tôi có ghé thăm nhà chị ấy.
– Khi ấy, tôi sẽ kiện anh.
– Thời gian đó, chị Hải chưa quen anh Tấn.
– Lúc bấy giờ anh đừng trách tôi nhé!

+ Từ kia, kìa dùng để chỉ một thời điểm nào đó đã xác định cụ thể hoặc không xác định nhưng có thể hình dung được một cách cụ thể trong tương lai, ví dụ:
– Họ mới rời Hà Nội hôm kia.
– Tôi hứa với anh, ngày kia hoặc ngày kìa mọi việc sẽ hoàn tất.
– Một ngày kia chúng tôi sẽ trở lại.

+ Từ nọ dùng để chỉ thời điểm không xác định trong quá khứ. Ví dụ:

Tôi mới cho nó vay tiền hôm nọ mà!

3. Đại từ chỉ trạng thái

– Đại từ chỉ trạng thái là những từ dùng để thay thế cho một trạng thái/ sự kiện đã được nêu ra ở một đơn vị ngôn ngữ khác (từ, một vế câu, một câu hoặc một số câu) hoặc đã được người nói và/hoặc người nghe trải nghiệm. Đó là các từ: thếvậy.

– Nói chung, hai đại từ này có nghĩa giống nhau và cách sử dụng giống nhau. Tuy nhiên, ‘thế’ có thể dùng với các đại từ chỉ định này, kia, ấy, nọ, ví dụ:

– Anh làm thế này thì hỏng mất.
– Trời mưa thế kia mà nó cứ nhất định ra về.
– Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
– Người nói thế nọ, người nói thế kia, tôi chẳng biết nghe ai.

Trong những trường hợp này, ta không thể thay đại từ ‘thế’ bằng đại từ ‘vậy’. Như vậy, đại từ ‘vậy’ không được dùng với các đại từ chỉ định này, kia, ấy, nọ.

________________________________________________________

Posted in Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , | Leave a Comment »

GS Nguyễn Tài Cẩn – Người soi rọi ngọn nguồn tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 3, 2011

Hàm Châu

Kỳ cuối: Chúng ta sẽ rất thiếu những nhà Việt Nam học

(Dân trí) – Là người nhận diện họ hàng xa gần của tiếng Việt từ mấy nghìn năm trước cho đến tận hôm nay, ông cũng cảnh báo một ngày không xa, chúng ta sẽ rất thiếu những nhà Việt Nam học có tầm cỡ.

Nghìn năm trước, tiếng Việt phát âm ra sao?

Lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo) của Nguyễn Tài Cẩn, xuất bản năm 1995, là một cuốn sách trong “cụm công trình” được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Qua 350 trang sách, tác giả đã bước đầu trả lời câu hỏi nói trên.
GS Cẩn và các học trò của ông đã vận dụng có phê phán phương pháp Swadesh, tức phương pháp ngữ thời học (grottochronology). Đó là phương pháp xuất phát từ quan niệm cho rằng, qua thời gian, việc thay thế từ vựng cơ bản cổ bằng từ vựng mới là một việc xẩy ra theo quy luật chung cho mọi ngôn ngữ. Nếu hai ngôn ngữ hay hai phương ngữ A, B cùng gốc tách nhau khoảng 1.000 năm, thì trong bảng từ vựng chúng chỉ còn giữ lại 74% là chung; nếu tách nhau 2.000 năm, thì số từ vựng chung còn lại chiếm khoảng 54%; tách nhau 4.000 năm, thì số từ vựng chung còn lại chỉ chiếm khoảng 30%.
Ông khiêm tốn gọi cuốn giáo trình nói trên là “sơ thảo”. Nhưng thật ra, đó là một công trình lớn, có tính chất mở đường. Để viết giáo trình ấy, ông đã phải tham khảo hàng trăm công trình nghiên cứu tiếng Việt, tiếng Mường và các ngôn ngữ bà con gần xa như các thứ tiếng: Nguồn, Pọng, Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A-rem, Thà Vựng, Pakatan, Phon Soung, Khạ Phong…

Nhận diện họ hàng gần xa của tiếng Việt

Nếu hai ngôn ngữ hay hai phương ngữ A, B cùng gốc tách nhau khoảng 1.000 năm, thì trong bảng từ vựng chúng chỉ còn giữ lại 74% là chung; nếu tách nhau 2.000 năm, thì số từ vựng chung còn lại chiếm khoảng 54%; tách nhau 4.000 năm, thì số từ vựng chung còn lại chỉ chiếm khoảng 30%.
Ngày nay, các nhà ngôn ngữ học quốc tế gần như nhất trí: Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc họ Nam á, ngành Môn-Khmer, trong tiểu chi Việt-Chứt; quan hệ với tiếng Thái-Kadai dù khá xa xưa, quan hệ với tiếng Hán dù khá sâu đậm, nhưng đó vẫn chỉ là quan hệ tiếp xúc, chứ không phải họ hàng gần. Để có thể hình dung một “ngành” như ngành Môn-Khmer trong ngôn ngữ học phức tạp đến mức nào, ta có thể xem Từ điển Bách khoa Britannica III. Thì ra, trong “ngành” ấy, có hơn… 100 ngôn ngữ! GS G. Diffloth đã lập “bản đồ” về 100 ngôn ngữ đó.
Tiểu chi Việt-Chứt là tiểu chi có đông người nói nhất trong ngành Môn-Khmer, chỉ tính riêng ở Việt Nam, vào thời điểm cuốn sách của Nguyễn Tài Cẩn được in, đã có hơn 60 triệu người. Trong khi ở tiểu chi Khmer chỉ có 7 triệu người; còn ở các tiểu chi khác, mỗi tiểu chi chưa đến 1 triệu người.
Về ngữ âm tiếng Việt thế kỷ 17, cứ liệu Nguyễn Tài Cẩn sử dụng trước hết là cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum- Latinum) của Alexandre de Rhodes in năm 1651 ở Rome, Italy.
Đi ngược lên thế kỷ 15-16, Nguyễn Tài Cẩn tham khảo tài liệu An Nam dịch ngữ, một danh sách hơn 700 mục từ tiếng Việt được người Trung Quốc dịch nghĩa và phiên âm qua chữ Hán để dùng trong ngoại giao.
Ngược dòng thời gian xa hơn nữa, thì cứ liệu quan trọng nhất là hệ thống ngữ âm ở các vùng thổ ngữ Mường. Cách đây khoảng 1.200 năm, Việt và Mường cùng dùng chung một tiếng.
Về tiếng Mường, TS Nguyễn Văn Tài, một cộng sự gần gũi của GS Nguyễn Tài Cẩn, đã dày công điều tra 29 thổ ngữ Mường và công bố trong luận án tiến sĩ năm 1983. 29 thổ ngữ đó được xếp vào 9 nhóm nằm rải rác tại các tỉnh Bắc Bộ và bắc Trung Bộ, từ Mường Phong, Mường Thái, Mường Bi đến Giai Xuân, Tân Hợp, Sông Con, v.v. Cũng là tiếng Mường, nhưng người Mường vùng này gọi là con trâu con, thì vùng kia gọi là con nghé; vùng này gọi là chiêng, thì vùng kia gọi là cồng; vùng này gọi là chân, vùng kia gọi là giò… Cũng để chỉ một con vật như nhau, nhưng người Mường nhóm 6 gọi là con dải, trong khi người Mường nhóm 7 lại gọi là con ba ba. Cũng là một hành động như nhau, nhưng người Mường nhóm 8 gọi là chửi, trong khi người Mường nhóm 9 lại gọi là bới, v.v.
Những nghiên cứu của GS Nguyễn Tài Cẩn và các học trò của ông như TS Nguyễn Văn Tài giúp cho những ai yêu tiếng Việt – trước hết là các nhà văn, nhà báo – hiểu tiếng Việt sâu xa hơn và, nhờ vậy, dùng tiếng Việt cẩn trọng hơn, chính xác hơn. Đọc cuốn sách ấy rồi, ít ai còn dám tự mãn nghĩ rằng mình đã hiểu đến tận ngọn nguồn tiếng mẹ đẻ!

Kiếm tìm trong lịch sử xa xăm

Ngược lên quá khứ xa xăm hơn nữa, khoảng 3.000 năm trước, chỗ dựa chủ yếu để nghiên cứu là các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở vùng núi khu Bốn như tiếng Sách, tiếng Rục, tiếng Mày, tiếng Mã Liềng, tiếng A-rem, và ở vùng bên kia biên giới Việt-Lào như tiếng Thà Vựng, tiếng Ahơ…
So sánh tiếng Việt với tiếng A-rem hay tiếng Maleng, tức là những ngôn ngữ đã tách khỏi tiếng Việt cách đây 2.300-2.500 năm, ta sẽ biết trạng thái khi hai bên còn chung một ngôn ngữ: trạng thái từ 2.500 năm trở về trước.
Căn cứ số liệu tính toán đã được công bố theo phương pháp ngữ thời học, thì tiểu chi Việt-Chứt tách khỏi Việt-Katu cách đây khoảng 4.000 năm. ở sơ kỳ của nó, tiểu chi Việt-Chứt chưa cách xa khỏi khối Katu bao nhiêu. Để nghiên cứu giai đoạn này, ta sẽ tìm cứ liệu ở các tiểu chi khác trong ngành Môn-Khmer.
Rất nhiều tộc người thiểu số, sống ở đông và tây Trường Sơn, nói các thứ thổ ngữ “líu lo như chim hót”, nghe rất lạ tai, hoá ra trong quá khứ xa xăm, họ đã từng nói cùng một thứ tiếng với người Việt!
Còn về ảnh hưởng sâu xa của tiếng Hán đối với tiếng Việt thì, như ta đã biết, GS Cẩn đã có một cuốn sách chuyên khảo riêng.
GS Cẩn cũng cẩn thận tìm lai nguyên của hệ thống phụ âm đầu (âm mũi, âm tắc, âm xát…), lai nguyên của các nguyên âm dòng trước (e, ê, i, iê), các nguyên âm dòng giữa (a, ă, ư, ơ, â, ươ), của hệ thống âm cuối (m/p, n/t, ng/c, u/o (w), i/y (j), và lai nguyên của âm đệm w. Rồi tìm lai nguyên của hệ thống thanh điệu (ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng).
Ông phân tích, tổng hợp các kết quả thu thập được của các đồng nghiệp trong nước và nước ngoài để rút ra kết luận.
Chẳng hạn, M. Ferlus không những nghiên cứu sâu về ngôn ngữ Tiền Việt-Mường (Vietnamien et Proto-Vietmuong, 1975), mà còn khảo sát cả phương ngữ Vinh (La dialecte vietnamien de Vinh, 1991)… M. E. Barker nghiên cứu các âm vị Mường (The Phonemes of Muong, 1968), các phụ âm cuối và nguyên âm Tiền Việt-Mường (Proto-Vietnamuong Final Consonants and Vowels, 1970)…

Bao nhiêu bạn trẻ biết chữ Nôm?

GS Mỹ Keith W. Taylor, nhà Việt Nam học nổi tiếng của Đại học Cornell (Mỹ), sang Hà Nội, nhờ GS Nguyễn Tài Cẩn dạy chữ Nôm cho. Chị Y. S. Wang viết luận án tiến sĩ về chữ Nôm. Còn chị Olga Dror thì lại viết luận án tiến sĩ về bà chúa Liễu Hạnh…
Kỳ trước, tôi đã nhắc đến chị Barbara Niedeer viết luận án tiến sĩ về tiếng Hmông-Dao, rồi dịch cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt của Nguyễn Tài Cẩn ra tiếng Pháp.
Mới đây nhất, trong hai ngày 11 và 12/4/2008, tại Đại học Temple (Mỹ), đã diễn ra Hội nghị Nôm học quốc tế để thông báo về những kết quả mới nhất trong việc nghiên cứu chữ Nôm. Đã 82 tuổi, GS Cẩn không sang dự được, mà chỉ gửi đi bản báo cáo: Một số vấn đề về ngành Nôm học. Ông cho biết, hiện nay, chúng ta có hai loại văn bản Nôm: loại đã được khắc in mộc bản và loại ở dạng chép tay. Ông muốn nói về loại thứ nhất, vì những cuộc tranh luận gần đây (như về Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Hoa tiên, v.v) đều liên quan đến loại này. Trong báo cáo đó, GS Cẩn thông báo về việc ông phát hiện một số chữ Nôm cổ còn giữ dấu vết kỵ huý đời Trần.
Tuy nhiên, chúng tôi không định đi sâu hơn vào học thuật mà chỉ muốn lưu ý bạn đọc rằng: Chữ Nôm, văn tự cổ của Việt Nam, hiện đang được nhiều nước biết tới, trong khi ở nước ta thì sao? Đốt đuốc đi tìm cũng khó thấy những bạn trẻ nào còn đọc nổi!
Rồi đây, sẽ có những bạn trẻ nào ở nước ta nuôi chí lớn kế tục sự nghiệp của các học giả lớp trước, dũng cảm bước vào ngành Nôm học hay rộng hơn Việt Nam học, Đông phương học như Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giáp, Hà Văn Tấn, Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Đức Từ Chi, Phan Huy Lê, Trần Đình Hượu…?
Nếu Nhà nước ta không lo lắng, kịp thời thu hút và đào tạo những tài năng trẻ, thì e rằng không lâu nữa, chúng ta sẽ rất thiếu những nhà Việt Nam học có tầm cỡ!
Tôi nhớ mãi điều nghịch lý mà GS Cẩn nói khi chia tay tôi, trở về với vợ con ông hiện đang sống ở Matxcơva.

_______________________________________________________________________

Posted in Chân dung các nhà ngôn ngữ học, Lịch sử tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , , | Leave a Comment »

GS Nguyễn Tài Cẩn – Người soi rọi ngọn nguồn tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 2, 2011

Hàm Châu

Kỳ II: Lội ngược dòng hơn mười thế kỷ

(Dân trí) – Tìm rõ cách đọc chữ Hán ở kinh đô Trường An (Trung Quốc) đời Đường, so sánh với hệ thống ngữ âm tiếng Việt thời ấy, để xác định cội rễ của cách đọc Hán-Việt và những biến đổi qua các thế kỷ sau của cách đọc ấy.

Cách đọc Hán – Việt bắt nguồn từ đâu?

Không chỉ các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và Trung Quốc, mà cả giới Đông phương học quốc tế cũng chú ý đến cách đọc Hán-Việt. Bởi vì, muốn nghiên cứu tiếng Hán trung đại, nghiên cứu cách đọc tiếng Hán ở Nhật Bản theo Go-On (Ngô âm) hay theo Kan-On (Hán âm), hoặc cách đọc tiếng Hán ở Triều Tiên theo cách đọc Hán-Triều, đều rất cần sự so sánh, viện dẫn cách đọc Hán-Việt, để rút ra những kiến giải.

Cứ liệu lịch sử cho biết, ngay từ đời nhà Hán, một số Thái thú Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đầu truyền bá văn hóa Hán ở vùng Giao Chỉ, Cửu Chân. Sĩ Nhiếp (187-236 sau CN), Thái thú Giao Châu, mở trường dạy học tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh hiện nay), thu hút rất đông sĩ tử, được các sử gia người Việt thời sau suy tôn làm “Nam giao học tổ” (ông tổ việc học đất phương Nam).

Gần đây, đền thờ và lăng mộ Sĩ Nhiếp ở Luy Lâu được Nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử – văn hóa.

Nhưng phải đến đời Tùy-Đường thì trình độ Hán học ở Giao Châu mới có thể sánh với Trung Nguyên. Khương Công Phụ, người làng Cổ Hiểm, huyện Cửu Chân, Ái Châu (nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) đến Trường An (nay là Tây An, tỉnh Thiểm Tây), kinh đô nhà Đường, dự thi Hội, đỗ Tiến sĩ. Ông được Hoàng đế nhà Đường mời lưu lại Trường An, về sau, làm đến chức Tể tướng Trung Hoa, hiện vẫn còn lưu truyền bài phú Bạch vân chiếu xuân hải. Em trai ông là Khương Công Phục làm đến chức Lang trung Bộ Lễ, cũng ở Trường An.

Các nhà Đông phương học hầu như nhất trí cho rằng cách đọc Hán-Việt hiện nay chính là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời Đường (618-907 sau CN) tại kinh đô Trường An, từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán được dạy lần cuối cùng tại Giao Châu trước khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10.

Từ thế kỷ thứ 10 đến nay, cách đọc Hán-Việt tuân theo quỹ đạo phát triển của tiếng Việt, không còn lệ thuộc vào những gì biến đổi trong ngữ âm tiếng Hán ở bên kia biên giới. Nhiều thế kỷ trôi qua, hai cách đọc chữ Hán của người Hán và của người Việt ngày càng khác xa nhau, đến mức một người uyên thâm Hán ngữ như Phan Bội Châu khi gặp Lương Khải Siêu ở Trung Quốc, chỉ có thể… bút đàm!

Lớp từ Hán-Việt ngày càng lọt sâu vào kho từ vựng tiếng Việt, những nét xa lạ về mặt ngữ âm mất dần và rồi trở thành một bộ phận khăng khít – chứ không phải được “cấy ghép” – của hệ thống Việt ngữ.

Kiến giải riêng từ hàng vạn trang sách

Trên đây, để cho dễ lĩnh hội, tôi đã tóm lược những kết luận cuối cùng. Tất nhiên, trước khi đi đến những kết luận như thế, Nguyễn Tài Cẩn phải bỏ ra biết bao công sức! Chẳng hạn, nói rằng cách đọc Hán-Việt hiện nay là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời nhà Đường ở Trường An, vậy thì, vào đời ấy, người Trung Hoa ở kinh đô của họ đọc chữ Hán ra sao? Tiếng Hán đời ấy có những phụ âm, những vần và những thanh điệu nào? Nếu sử dụng cách phiên âm quốc tế hiện nay để ghi lại, thì phải dùng những ký hiệu nào? Nhà khoa học không thể “phán” nếu thiếu luận cứ.

Và nữa, cách đọc chữ Hán của người Việt hồi thế kỷ thứ 8-9 là như thế nào? Gồm những phụ âm, những vần và những thanh điệu nào? Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 20, cách đọc Hán-Việt đã biến đổi ra sao?

Để trả lời những câu hỏi ấy, phải sử dụng những phương pháp hiện đại của ngữ âm học lịch sử mà, nếu trình bày trong bài báo này, thì sẽ đi quá sâu vào học thuật, sẽ phải sử dụng nhiều biểu bảng, nhiều chữ Hán, chữ Nôm, chữ Anh, chữ Pháp, chữ Nga, nhiều ký hiệu phiên âm quốc tế, rất khó in trên báo chí phổ thông và gây “đau đầu nhức óc” cho bạn đọc không chuyên.

H. Maspéro đã viết bằng tiếng Pháp cuốn Tiếng địa phương Trường An đời Đường (Le dialecte de Tchang-an sous les Tang). B. Karlgren cũng viết bằng tiếng Pháp cuốn Khảo sát âm vị học tiếng Hán (études sur la phonologie chinoise). Đặc biệt, cuốn Thiết vận của nhóm Lục Pháp Ngôn ở Trường An đầu thế kỷ thứ 7 là tài liệu tham khảo quan trọng đối với Nguyễn Tài Cẩn.

Đọc hàng vạn trang sách bằng các thứ chữ Hán, Nôm, Quốc ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật… về vấn đề liên quan, đưa ra thêm những luận cứ mới, những kiến giải riêng, Nguyễn Tài Cẩn đã soi rọi đến tận ngọn nguồn cách đọc Hán-Việt, một cách đọc đã giúp người Việt Nam dễ dàng tiếp nhận những tinh hoa của văn hóa Hán – một trong hai nền văn hóa lớn nhất phương Đông – mà không bị “Hán hóa”.

“Chao ôi, thầy kỹ tính quá!”

Chiều hôm ấy, trời lâm thâm mưa. Ông Trần Trí Dõi, Phó Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (thuộc ĐHQG Hà Nội) đưa chị Barbara Niedeer đến nhà GS Cẩn ở một ngõ nhỏ bên đường Hoàng Quốc Việt. Dép bê bết bùn, chị Barbara vừa bước vào nhà vừa vội vã nói:

– Em sắp trở lại Paris. Em đã dịch xong cuốn sách của thầy ra tiếng Pháp. Mong thầy cho phép em đưa in bản dịch.

– Cuốn nào thế nhỉ? GS Cẩn hỏi.

– Cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt ạ! Trước kia, em chẳng chú ý mấy đến cuốn sách ấy. Nhưng thầy A. G. Haudricourt “bắt” em đọc! Đọc rồi, em mới cảm thấy hay. Và em quyết định phải dịch. Em nghĩ cuốn sách của thầy sẽ giúp ích nhiều cho các nhà Đông phương học trên thế giới, nếu họ có trong tay bản dịch tiếng Pháp…

Barbara Niedeer viết luận án tiến sĩ về tiếng Hmông-Dao. Chị đã từng sống nửa năm trên bản Hmông cao chót vót. Là người Pháp gốc Thụy Sĩ, chị thông thạo các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, biết cả tiếng Trung Quốc, Việt, Hmông, Dao. Chị hiện làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) và là học trò yêu của thầy A. G. Haudricourt, nhà Đông phương học nổi tiếng thế giới.

– Tôi rất cảm ơn cô! Nhưng mong cô thông cảm cho: Gần đây, tôi nghe nói bên Mỹ vừa xuất bản cuốn A Handbook of Old Chinese Phonology (Sách chỉ dẫn về ngữ âm tiếng Hán cổ) của W. H. Baxter, dày tới 900 trang. Tất nhiên, đó là cuốn sách viết về tiếng Hán cổ, nhưng rất có thể có liên quan phần nào đến cách đọc Hán-Việt. Tôi cần tham khảo cuốn sách đó để, nếu cần, thì chỉnh lý đôi chút cuốn sách của mình cho cập nhật. Cô chịu khó chờ một thời gian nhé!

– Chao ôi, thầy kỹ tính quá! – Barbara thất vọng kêu lên.

“Giờ thì mình hết băn khoăn”

Tháng 11/2001, tôi gặp lại GS Nguyễn Tài Cẩn tại Hà Nội sau một thời gian dài ông sống và làm việc cùng vợ tại Matxcơva. Vợ ông, GS N. V. Stankyevich, là một nhà ngôn ngữ học người Nga chuyên nghiên cứu tiếng Việt và tiếng Hán. Trước kia, bà sống và làm việc tại Việt Nam. Sau khi về hưu, do sức khỏe kém, bà trở về Nga. GS Cẩn theo vợ về bên ấy để tiện cho các con chăm sóc.

Thấy tôi đến thăm, GS Cẩn đưa cho xem bản in thử cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt sắp tái bản. Phải nói rằng việc xử lý trên máy tính bản thảo cuốn sách này thật… quá ư phiền toái! Trong một câu văn, thường có cả chữ Quốc ngữ, chữ Hán (phồn thể) và ký hiệu phiên âm quốc tế. Rồi, để cho dễ tra cứu, phải giữ nguyên dạng chữ Pháp, chữ Anh, chữ Đức, chữ Nga… ít ai dám nhận việc sửa bản in thử, ngoài tác giả!

– Chắc bây giờ anh vui lòng để chị Barbara Niedeer đưa in bản dịch tiếng Pháp cuốn sách này rồi chứ? – Tôi hỏi.

– Vừa rồi, mình đã đọc kỹ cuốn Sách chỉ dẫn ngữ âm tiếng Hán cổ của W. H. Baxter. Rồi đọc cả cuốn Phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Hán cổ của nhà bác học Nga S. A. Starostin. Hai ông đưa ra một số luận điểm về ngữ âm tiếng Hán cổ mà mình rất thích. S. A. Starostin ghi là đã tham khảo sách của mình. W. H. Baxter cũng chủ trương Thiết vận có 8 nguyên âm như trong sách của mình. Giờ thì mình hết băn khoăn…

– Thế anh đã trả lời chị Barbara chưa?

– Mình sẽ gửi email cho cô ấy.

(Còn nữa)
_______________________________________________________________

Posted in Chân dung các nhà ngôn ngữ học, Lịch sử tiếng Việt | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

GS Nguyễn Tài Cẩn – Người soi rọi ngọn nguồn tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Ba 2, 2011

Hàm Châu

Kỳ I: Những câu hỏi “muôn năm cũ”

(Dân trí) – Tại sao người Việt đọc tiếng Hán mà cứ y như đọc tiếng Việt? Cách đọc Hán-Việt có từ bao giờ? Nó đã biến đổi ra sao qua bao nhiêu thế kỷ? Nguyễn Tài Cẩn muốn trả lời những câu hỏi “muôn năm cũ” ấy.

Là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ ngôn ngữ học tại Liên Xô (cũ), ông trở thành giáo sư, rồi được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Các công trình của ông nhằm giải quyết những vấn đề về ngữ pháp, ngữ âm tiếng Việt, về nguồn gốc và cách đọc Hán-Việt, về chữ Nôm, văn bản Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Hoa tiên, Thu dạ lữ hoài ngâm… Ông được mời đến giảng dạy tại Nga, Mỹ, Pháp, Nhật…

Chọn hướng nào đây giữa tuổi xuân mơ mộng?

Thuở nhỏ, tôi sống trong nhà bác tôi, cụ Cử nhân Nho học Nguyễn Văn Hạp, cùng ông nội tôi cụ Phó bảng Nguyễn Văn Chấn, tại khu Lục Bộ giữa Đại Nội, Huế. Hai phía tường nhà bác tôi giáp nhà cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, phụ thân BS Nguyễn Khắc Viện, và nhà cụ Phó bảng Phan Võ, phụ thân GS Phan Ngọc.

Tôi vẫn nghe anh Nguyễn Văn Hường, con bác tôi, khen anh Nguyễn Tài Cẩn học giỏi lắm, mà lại đẹp trai, nước da trắng hồng, râu mép cạo nhẵn phớt xanh. Năm đầu, anh Cẩn học Trường trung học Thuận Hóa, một trường tư do ông Tôn Quang Phiệt mở, mời được nhiều thầy giỏi nổi tiếngvề dạy như Đào Duy Anh, Hoài Thanh… Năm sau, anh thi đỗ vào Trường Quốc học Huế, và rồi từ đó, năm nào anh cũng đứng đầu lớp, nhận học bổng toàn phần.

Anh Cẩn học giỏi đều các môn, nhất là môn tiếng Pháp. Anh nuôi kỳ vọng viết văn… Tây! Một lần đến thăm thầy cũ Hoài Thanh, anh bộc bạch với thầy kỳ vọng ấy. Không ngờ thầy bảo:

– Mình là dân An Nam, học tiếng Tây ở xứ “bảo hộ”, làm sao có thể viết văn Tây hay bằng các ông, bà nhà văn Tây như ông Honoré de Balzac hay bà George Sand bên “chính quốc” được ?

Sau lần đó, anh Cẩn chuyên tâm học tiếng Việt hơn. Rồi anh đâm ra mê làm thơ Việt! Hôm ấy, anh mạnh dạn đem một tệp thơ do anh mới “sáng tác” đến nhờ ông Nguyễn Đình Thư nhận xét. Năm 1942, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân từng khen thơ Nguyễn Đình Thư: “Thể hiện một mối buồn âm thầm, lặng lẽ, thấm thía vô cùng, cái buồn không nước mắt, cái buồn của điệu Nam Bình trên sông Hương”.

Đọc tệp thơ của anh Cẩn, “nhà thơ mới” Nguyễn Đình Thư liền vui vẻ động viên: “Có triển vọng đó!”

Mấy hôm sau, tới thăm thầy cũ Đào Duy Anh, anh xin thầy cho biết ý kiến về tệp thơ kia, với hy vọng thầy cũng sẽ khen hay. Nào ngờ thầy chỉ lơ đãng đọc lướt qua, rồi chậm rãi nói:

– Làm thơ, nếu quả có tài năng thiên phú như Hồ Xuân Hương, Tú Xương hay Tản Đà, Xuân Diệu… thì hãy làm! Chứ nếu không, thì chỉ… toi công! Làm cả nghìn bài, chưa chắc đã có một bài “sống sót” qua năm tháng! Lúc trẻ, mộng mơ nhiều, ưa nói những lời to tát, nhưng rồi, nửa đời nhìn lại, bỗng thấy… trắng tay! Còn nếu làm nhà học giả, thì chỉ cần thông minh, bền chí, có phương pháp tốt, có óc tìm tòi, ắt “kiến tha lâu đầy tổ”, sẽ tới ngày có được những khám phá độc đáo với “tuổi thọ” khá cao.

Lời khuyên chí lý của cụ Đào giúp anh Cẩn dứt khoát “hướng nghiệp” đời mình. Anh trở thành nhà Việt ngữ học, chứ không phải nhà thơ.

Thơ Nguyễn Du sai ngữ pháp?

Đầu những năm 1960, nghe nói có vị giáo viên văn trung học say sưa phân tích trước lớp về câu thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”.

– Cái gì đã rụng? – Vị giáo viên kia hỏi.
– Thưa thầy, cái giếng.
– Rụng cái gì?
– Thưa thầy, lá ngô.

– Cái giếng làm sao có lá để mà rụng? Vậy thì, giếng vàng làm sao có thể làm chủ ngữ cho động từ đã rụng? Câu thơ nói trên lẽ ra phải viết: “Một vài chiếc lá ngô đồng đã rụng bên bờ giếng dưới ánh nắng thu vàng”.

Vị giáo viên nhếch mép cười khoan dung, rồi nói tiếp: Nhưng, chúng ta không chê trách Nguyễn Du. Cụ khó tránh khỏi những hạn chế của thời đại Cụ! Cách đây hai thế kỷ, khi Nguyễn Du còn ngồi trên ghế nhà trường chưa có sách ngữ pháp tiếng Việt như các em hôm nay. Cụ đâu có cái cơ may được học ngữ pháp tiếng Việt một cách khoa học!

Phải nói rằng, cho đến những năm 60 thế kỷ 20, vẫn còn không ít người muốn đem bộ khung ngữ pháp nước ngoài “đóng đinh bắt vít” vào tiếng Việt, để “phán” rằng câu nói hồn nhiên của các em học sinh “chiếc lá này xanh” cần phải chữa lại thành “chiếc lá này là xanh” mới đúng với cách viết trong tiếng Pháp “cette feuille est verte” hay cách viết trong tiếng Anh “this leaf is green”!

Mỗi ngôn ngữ có những đặc điểm riêng. Lẽ ra họ phải xuất phát từ câu nói tự nhiên của người Việt để phân tích, khái quát hoá, tìm ra quy luật ngữ pháp, thì lại làm ngược lại, bê nguyên xi ngữ pháp nước ngoài áp đặt vào tiếng Việt!

Thật ra, thơ Nguyễn Du rất đúng ngữ pháp tiếng Việt, nhưng sẽ không khớp với cái khung ngữ pháp tiếng Pháp hay tiếng Anh. Chớ nên làm chuyện ngược đời: Gọt chân người Việt cho vừa giày Tây đóng sẵn!

Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Cao Xuân Hạo, khi còn sống, đã có lần cảnh báo: Những câu kiểu “dự án này được tài trợ bởi UNESCO”, v..v… là tiếng Việt… “bồi”! Bởi lẽ, nếu cứ trượt dài theo cái đà đó, thì sẽ có lúc một chàng ngố xứ ta nói với người yêu: “Anh được yêu… bởi em”!

Bắt chước ngữ pháp nước ngoài, chẳng tốn bao công sức! Khảo sát tỉ mỉ thực tế việc sử dụng muôn hình muôn vẻ tiếng Việt, để rồi từ đó, mày mò năm này qua năm khác, khám phá ra quy luật nội tại của ngôn ngữ đơn lập này, quả là một công việc gay go, vất vả hơn nhiều! Nguyễn Tài Cẩn, ngay từ đầu, đã đi theo hướng ấy.

Về cuốn Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng, từ ghép, đoản ngữ của Nguyễn Tài Cẩn, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo nhận xét:”

Cách đây 40 năm, bậc đàn anh của Việt ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đem từ Liên Xô về lý thuyết âm tiết – hình vị, một lý thuyết có thể giúp giải quyết những vấn đề mà một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt đặt ra cho ngôn ngữ học hiện đại, từ đó vạch ra con đường khắc phục “chủ nghĩa dĩ Âu vi trung” (coi châu Âu là trung tâm/europeocentrism). Tiếc rằng hồi đó không ai hiểu ông!”

Cao Xuân Hạo là nhà ngôn ngữ học có uy tín quốc tế. Cho nên, lời đánh giá của ông về vai trò của “bậc đàn anh của Việt ngữ học Nguyễn Tài Cẩn” trong việc xây dựng ngữ pháp tiếng Việt là rất đáng tin.

Sự “tài tình” của cách đọc Hán-Việt

Một công trình khác của Nguyễn Tài Cẩn cũng mang lại cho bạn đọc trí thức nhiều hứng thú là cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt xuất bản năm 1979.

Không ít người Việt Nam – trong đó có tôi – mê thơ Đường. Lớn lên trong gia đình Nho học, ngay từ thuở bé, tôi đã được học thuộc lòng hàng trăm bài thơ Đường như Đề đô thành nam trang của Thôi Hộ:

Tích niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Có thể nói, trong cả bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng tiếng Hán ấy, về mặt ngữ nghĩa, chỉ có hai chữ (tích và thử) là hơi lạ lẫm đối với một người Việt chưa có dịp học qua chữ Hán; còn 26 chữ khác thì đều quen thuộc từ lâu. Hơn nữa, về mặt thanh điệu, đọc bài thơ lên, ta cảm thấy bằng, trắc hài hòa, êm tai, đúng niêm luật. Dường như không có khoảng cách 12 thế kỷ giữa nhà thơ Thôi Hộ và chúng ta!

Nhà thơ Nam Trân, qua bút danh Tương Như, dịch rất sát nghĩa:

Cửa đây, năm ngoái, cũng ngày này,
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá?
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây!

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du mượn ý hai câu thất ngôn cuối bài thơ Thôi Hộ để “sáng tạo lại” thành hai câu lục bát tuyệt hay:

Trước sau nào thấy bóng người!
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông…

Trong tiếng Việt, lớp từ Hán-Việt chiếm một tỷ trọng rất lớn, nhất là ở phong cách nghị luận, khoảng 60-70%. Mức độ phong phú của lớp từ này coi như vô hạn. Những thập niên gần đây, và cả từ nay về sau, khi cần, ta vẫn có thể mượn thêm những từ Hán mới.

Một số nhà khoa học thông thạo chữ Hán, như GS Hoàng Xuân Hãn, đã làm phong phú thêm tiếng Việt bằng vô số từ Hán hiện đại như: định lý, định luật, đẳng thức, phương trình, nguyên tử, phân tử, điện tử… Trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, lớp từ Hán-Việt cũng rất lớn: duy vật, duy tâm, cương lĩnh, chính sách, chiến lược, sách lược, du kích, chính quy, tiến công, phòng ngự, công hàm, hiệp định…

Tại sao cả một lớp từ “đông đúc” như vậy lọt sâu vào tiếng Việt, mà lại không làm thay đổi cấu trúc nội tại của Việt ngữ? Tại sao người Việt đọc tiếng Hán mà cứ y như đọc tiếng Việt? Cách đọc Hán-Việt có từ bao giờ? Nó đã biến đổi ra sao qua bao nhiêu thế kỷ?

Nguyễn Tài Cẩn muốn trả lời những câu hỏi “muôn năm cũ” ấy.

(Còn nữa)
_____________________________________________________

Posted in Chân dung các nhà ngôn ngữ học, Lịch sử tiếng Việt | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và những cống hiến trong nghiên cứu chữ Nôm (nén tâm hương tưởng nhớ Thầy)

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Hai 27, 2011

Nguyễn Tuấn Cường

Điều đáng tiếc cho một kẻ “hậu học” trong ngành ngữ văn học như tôi là không có cái may mắn được trực tiếp học với Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (2/5/1926 – 25/2/2011), nhưng qua việc đọc các công trình nghiên cứu của GS và tiếp thu tư tưởng khoa học của GS thông qua các thế hệ học trò của GS, tôi vẫn là học trò (của học trò (của học trò)) của GS theo tất cả các nghĩa của cách trình bày văn tự này.

Vì vậy, dù vẫn biết tình trạng sức khỏe của GS gần đây không được tốt, tôi vẫn cảm thấy hụt hẫng trước tin GS đã ra đi mãi mãi vào ngày 25/2/2011 tại Moskva. Muốn thắp nén tâm hương tưởng nhớ GS Nguyễn Tài Cẩn, nhưng bởi cái lí do không được trực tiếp học với GS và vì thế ít có kỉ niệm với GS (dù tôi cũng có vinh hạnh gặp GS 4 lần), tôi đành tưởng nhớ đến anh hồn GS bằng con đường khoa học, con đường đã khiến GS được mãi ghi danh với đời.

Đứng trước di sản khoa học đồ sộ của GS Nguyễn Tài Cẩn, người ta thường dễ đồng điệu với cái cảm giác “ngưỡng chi di cao” (càng ngửa trông càng thấy cao) của Nhan Hồi đối với bậc sư biểu Khổng tử. GS đặt dấu ấn sâu sắc trên nhiều lĩnh vực: ngữ pháp, ngữ âm, Hán Nôm, từ vựng, từ nguyên, Việt ngữ học, ngôn ngữ thơ, văn học, văn hóa… Kẻ hậu học này, vốn rất khiêm tốn về tuổi đời và càng khiêm tốn hơn về tuổi nghề, chỉ xin ngửa trông một góc nhỏ trong sự nghiệp khoa học của GS, đó là việc nghiên cứu chữ Nôm. Mặc dù chữ Nôm đã có lịch sử tồn tại trên 800 năm, nhưng việc nghiên cứu về chữ Nôm hầu như chỉ được đặt ra từ thế kỉ XX đến nay. Trong giai đoạn này, những công trình nghiên cứu về chữ Nôm của GS Nguyễn Tài Cẩn có vị trí nổi bật. Công việc mô tả lại những công trình đó là không cần thiết và, quan trọng hơn, không thể đầy đủ trong một bài viết ngắn, nên ở đây tôi chỉ xin lược điểm những cống hiến nổi bật của GS Nguyễn Tài Cẩn trong lĩnh vực nghiên cứu hẹp này.

1. Xác lập những công cụ và phương pháp nghiên cứu chữ Nôm

Đối với ngành “Nôm học” (nếu có thể dùng thuật ngữ này), GS Nguyễn Tài Cẩn có công tích lớn trong việc xác lập những công cụ và phương pháp nghiên cứu, những tiền đề căn bản cho nghiên cứu chữ Nôm.
Từ rất sớm, GS đã dày công nghiên cứu về cách đọc Hán Việt (1971, 1972, 1979) với tư cách một khái niệm công cụ để nghiên cứu chữ Nôm, đặc biệt là vấn xác định thời điểm xuất hiện của loại văn tự này: “có thể là chữ Nôm đã hình thành đồng thời với âm Hán – Việt, nhưng cũng rất có thể là âm Hán – Việt hình thành trước, rồi một thời gian sau đó cha ông chúng ta mới dựa vào các chữ Hán đọc theo âm Hán – Việt để sáng tạo ra chữ Nôm” (1971). Phương pháp xác định niên đại hình thành chữ Nôm dựa vào thời điểm xuất hiện của hệ thống âm Hán Việt mà GS đưa ra vào thời điểm đầu thập niên 1970 như vậy là một quan điểm mới mẻ, khác với các quan niệm trước đó vốn phần nhiều căn cứ trên các bằng chứng (huyền) sử học và xã hội học có thiên hướng đẩy thời điểm xuất hiện của chữ Nôm lên sớm hơn thời điểm thực tế.

Bên cạnh dấu ấn trong nghiên cứu về âm Hán Việt, GS còn có nhiều cống hiến ở địa hạt nghiên cứu về âm đọc Cổ Hán Việt (còn gọi là Tiền Hán Việt) và âm đọc Hán Việt Việt Hóa (còn gọi là Hậu Hán Việt) để hình thành bức tranh ảnh hưởng ngôn ngữ (ngữ âm) giữa tiếng Hán với tiếng Việt trong lịch sử (1987). Điều này góp phần cải chính nhiều quan niệm về âm đọc và cách phân loại chữ Nôm ghi âm Cổ Hán Việt và Hán Việt Việt Hóa của các bậc tiền bối như Vương Lực (1948), Đào Duy Anh (1975).

Ngoài ra, GS Nguyễn Tài Cẩn đã sớm tiến hành nghiên cứu về sự xuất hiện của từng cá thể chữ Nôm trong hệ thống chữ Nôm. Trong danh tác khoa học Một số vấn đề về chữ Nôm in năm 1985, GS đã dành 20 trang cuối ở mục Phụ lục (tr. 252-272) để trình bày bảng tra Một số chữ Nôm cổ đã gặp trong các văn bản có niên đại chính xác (từ thế kỉ XII đến thế kỉ XVII), trong đó liệt kê những ngữ tố (hình vị) tiếng Việt xuất hiện sớm nhất được ghi nhận trong các tư liệu khả tín bằng chữ Nôm. Ngày nay, với những điều kiện mới mẻ hơn về mặt tư liệu văn bản chữ Nôm, chúng ta vẫn đang chờ đợi một cuốn từ điển (hoặc khiêm tốn hơn: bảng tra) dày dặn hơn, cụ thể hơn về nội dung tương tự.

Bên cạnh đó, đường hướng trong nghiên cứu chữ Nôm với tư cách là một hệ thống văn tự cũng đã sớm được GS Nguyễn Tài Cẩn phác thảo (1981): cần đi từ văn tự học đại cương, sang văn tự học khu vực để hình dung về bức tranh văn tự trên thế giới và khu vực, rồi mới đi sâu vào nghiên cứu chữ Nôm với tư cách là một hệ thống văn tự ghi tiếng Việt. Hướng đi này đến những năm đầu thế kỉ XXI đã được sâu sắc hóa bằng công trình của Nguyễn Quang Hồng (2008).

2. Nghiên cứu vĩ mô: xác lập mô hình cấu trúc chữ Nôm

Xét từ góc độ cấu trúc văn tự học, việc nghiên cứu về cấu trúc chữ Nôm trong thế kỉ XX có thể phân chia thành hai giai đoạn khác nhau một cách tương đối rõ rệt. Trước năm 1975, các nghiên cứu văn tự học về chữ Nôm mang tính chất “khai sơn phá thạch”, chủ yếu dựa theo mô hình văn tự học Trung Quốc, lấy “Lục thư” (sáu phép cấu tạo chữ Hán: tượng hình, chỉ sự, hội ý, giả tá, chuyển chú) làm trung tâm để “lắp ráp” các phương thức cấu trúc chữ Nôm vào khuôn khổ phân chia ấy. Chúng ta có thể gặp ở đây những nhà nghiên cứu nổi tiếng đi theo đường hướng này: Văn Hựu (1933), Dương Quảng Hàm (1943), Trần Kinh Hoà (1949), Đào Duy Anh (1975)… Đặc biệt, công trình nổi tiếng Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo – Diễn biến của GS Đào Duy Anh (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) là “tập đại thành” cho đường hướng nghiên cứu này. Sau năm 1975, con đường ấy vẫn được tiếp tục triển khai, phần lớn từ phía các học giả nước ngoài như Lí Lạc Nghị (1986), Mã Khắc Thừa (1996) ở Trung Quốc, Wm. C. Hannas (1997) ở Mĩ – những người chủ yếu tiếp cận chữ Nôm qua cuốn sách của GS Đào Duy Anh, hoặc qua một vài bài viết có tính chất lược giới về chữ Nôm viết bằng tiếng Anh, chứ không cập nhật được tình hình nghiên cứu trong nước.

Bước sang năm 1976, việc nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm đã bước sang một thời kì mới với sự tiên phong của vị chủ tướng Nguyễn Tài Cẩn viết cùng Phu nhân là GS N.V Stankevitch qua bài viết Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm. Bài viết này đã thoát khỏi tư duy “Lục thư” truyền thống để chuyển sang sử dụng phương pháp khoa học hiện đại, nhìn nhận chữ Nôm như một đối tượng nghiên cứu văn tự học trong mối quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt, đặc biệt là ngữ âm học. Căn cứ theo các tiêu chí tự hình, tự âm, tự nghĩa, GS Nguyễn Tài Cẩn đã phân loại chữ Nôm lần lượt theo nhiều bước lưỡng phân liên tiếp để khái quát nên một mô hình cấu trúc chữ Nôm gồm 10 loại. Ở thời điểm năm 1976, đây là một mô hình phân loại khoa học nhất, toàn diện nhất (bởi hầu hết các cá thể chữ Nôm đều có thể quy vào đó). Phương pháp làm việc khoa học này đã ngay lập tức tạo ảnh hưởng tích cực đến các nghiên cứu sau này của Lê Văn Quán (1981), Nguyễn Ngọc San (1987), Nguyễn Khuê (1987-1988), Lê Anh Tuấn (2003)… Sang thế kỉ XXI, mô hình ấy được sửa đổi và tái thiết trong các công trình của Nguyễn Quang Hồng (2006, 2008).

Điểm đáng lưu ý về sự chuyển đổi hệ hình trên là việc GS Đào Duy Anh ngay từ năm 1975 đã thừa nhận sự khác biệt về phương pháp phân loại giữa ông và GS Nguyễn Tài Cẩn. GS Đào viết:
“Ông Nguyễn Tài Cẩn nói với tôi rằng nhà ngôn ngữ học có thể theo những cách phân loại chữ Nôm khác với cách của tôi, nhưng cuối cùng kết quả vẫn là hoàn toàn phù hợp với kết quả của tôi, như thế tỏ rằng cách phân loại của tôi vẫn đúng. Tôi xin nói thêm rằng tôi không theo cách phân loại của nhà ngôn ngữ học vì tôi thấy đối với người độc giả thông thường cách phân loại theo ngôn ngữ học hơi lạ và khó hiểu. Theo tôi cách phân loại này giản dị và dễ hiểu hơn, tôi cho rằng nó phù hợp với con đường suy nghĩ và những nguyên tắc người xưa đã dựa vào trong khi xây dựng chữ Nôm” (sđd, tr. 63, chú thích số 1).

Tất nhiên, ở đây mỗi học giả đã tùy theo quan điểm của mình để xác định cách tiếp cận nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm. Hơn nữa, cũng cần chú ý rằng cuốn sách trên của GS Đào in năm 1975, sau khi ông được nghe trao đổi với GS Nguyễn, chứ hẳn là ông chưa được đọc bài nghiên cứu công phu của GS Nguyễn sẽ được in vào 1 năm sau đó (1976) để có thể biết rằng cách phân loại của GS Nguyễn có sự khác biệt khá xa với ông, đặc biệt là về vấn đề tính khoa học trong phương pháp phân loại cấu trúc văn tự. Từ góc độ kế thừa khoa học, việc phản biện nhau và chấp nhận nhau giữa hai nhà nghiên cứu chữ Nôm thời danh ấy là rất đáng quý và đáng học hỏi.

3. Nghiên cứu vi mô: từ nan đề “song viết” đến trilogy Truyện Kiều

Ngoài thành công trên phương diện nghiên cứu chữ Nôm từ tầm vĩ mô, GS Nguyễn Tài Cẩn còn đặt dấu ấn của mình trong việc nghiên cứu vi mô đối với những chữ Nôm cá biệt vốn là “nan đề” trong nghiên cứu chữ Nôm xưa nay. Bài viết này chỉ xin đề cập đến hai trường hợp: hai chữ “song viết” trong thơ Nôm cổ thế kỉ XV-XVI và những chữ Nôm trong Truyện Kiều vốn rất phức tạp, từng gây nhiều tranh cãi.

Cách đọc và hiểu hai chữ “song viết” (双曰) xuất hiện nhiều lần trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập và Nguyễn Bỉnh Khiêm chắc chắn là vấn đề gây nhiều tranh luận nhất trong việc nghiên cứu các cá thể chữ Nôm suốt từ giữa thế kỉ XX đến nay, nó thu hút sự tham gia của không dưới 10 nhà nghiên cứu. Không yên tâm với cách hiểu thiên về phân tích tự hình chữ Nôm của các nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm (1956), Đào Duy Anh (1962), Đỗ Văn Hỉ (1967), GS Nguyễn Tài Cẩn trong các năm 1974 và 1975 đã đề xuất và tiến hành một cách tiếp cận mới toàn diện hơn, xuất phát từ tự hình để đi sâu vào phân tích ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, liệt kê tất cả các khả năng có thể đọc và hiểu hai chữ đó, tham bác nhiều đối chứng từ các ngôn ngữ lân cận, kiểm tra trong các từ điển tiếng Việt trước thế kỉ XX, sàng lọc và thận trọng loại bỏ những khả năng phi thực hữu, từ đó gút lại một cách đọc rất mới mẻ là “rông vát” cho hai chữ Nôm đặc dị này, rồi lại kiểm tra tất cả các khía cạnh nghĩa của hai chữ ấy (7 khía cạnh nghĩa) trong các văn cảnh xuất hiện của chúng, và rồi với tất cả sự cẩn trọng cần thiết của một nhà khoa học, ông vẫn đề nghị để tồn nghi giải pháp trên, chờ nghiên cứu thêm. Dù cho sau này có thêm nhiều nhà nghiên cứu (Ngô Đức Thọ, An Chi, Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thế…) tham gia tranh luận với các quan điểm ít nhiều khác nhau và khác với thuyết “rông vát”, nhưng phương pháp nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và thận trọng mà GS Nguyễn Tài Cẩn đã áp dụng để đi đến kết quả ấy mãi là một tấm gương cho các nhà nghiên cứu sau này học hỏi.

Xét trên bình diện văn bản tác phẩm Nôm thì xưa nay không có hệ thống văn bản nào phức tạp bằng hệ thống văn bản Truyện Kiều. GS Nguyễn Tài Cẩn trong khoảng 10 năm đầu thế kỉ XXI đã liên tục cho vấn thế những công trình nghiên cứu có uy tín về văn bản và từ ngữ văn Nôm hệ thống văn bản phồn tạp ấy, tập trung nhất là 3 cuốn sách mà nhan đề đều mở đầu bằng “Tư liệu Truyện Kiều…” (2002, 2004, 2008).
Khởi đi từ những gợi ý về mặt nghiên cứu văn bản và từ ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn, GS Nguyễn Tài Cẩn từ những năm cuối thế kỉ XX đã đi sâu nghiên cứu vấn đề văn bản và ngôn ngữ Truyện Kiều theo hướng “tầm nguyên”, đi tìm “nguyên lời Nguyễn Du”, để đến năm 2002, cuốn chuyên khảo đầu tiên về bản Duy Minh Thị 1872 được ra mắt bạn đọc. Việc khảo cứu cụ thể một văn bản Truyện Kiều trong mối tương quan so sánh với những văn bản khác trong hệ thống văn bản Truyện Kiều không hẳn là một vấn đề quá mới (từ năm 1999, Thế Anh đã in cuốn sách phiên âm và khảo dị bản Kiều Oánh Mậu 1902: Đoạn trường tân thanh: Truyện Kiều đối chiếu Nôm – Quốc ngữ, NXB Văn học, 1999), nhưng cuốn sách trên của GS Nguyễn Tài Cẩn đã tự “biệt thành nhất gia” bởi tính chất khoa học và mới mẻ của nó.

Cuốn sách bàn đến bản Duy Minh Thị 1872 từ 3 khía cạnh (tương ứng với 3 phần nội dung sách): nghiên cứu văn bản, phiên Nôm, biện giải từ ngữ; cả 3 khía cạnh này đều được trình bày với nhiều ý tưởng mới lạ. Trong nghiên cứu văn bản, GS đặc biệt chú ý đến hiện tượng kiêng húy (hướng đi mà sau này ông tiếp tục đi sâu hơn) để tìm mối liên hệ giữa bản Duy Minh Thị 1872 với nguyên tác của Nguyễn Du. Về phiên âm, với những nghiên cứu sâu sắc về văn tự học chữ Nôm trước đó, GS đã công bố một bản phiên âm với nhiều giả thiết từ ngữ khá lạ lẫm và thú vị đối với giới “Kiều học”. Về biện giải từ ngữ, GS đã phát huy được sở trường ngữ âm học lịch sử, từ vựng học lịch sử và phương ngữ học của mình để tiến hành sàng lọc và lập luận về cách đọc, cách hiểu với từng trường hợp từ ngữ trong bản Duy Minh Thị 1872; phần này chính là điểm then chốt của cuốn sách, để cho nó có thể “biệt thành nhất gia”. Cách thức nghiên cứu trong cuốn sách này có giá trị gợi hướng cho các nhà nghiên cứu khác bắt tay thực hiện công việc ít nhiều tương tự đối với các văn bản khác nằm trong danh sách những bảnTruyện Kiều chữ Nôm có niên đại sớm nhất hiện biết: Liễu Văn đường 1871, Nguyễn Hữu Lập 1870, Liễu Văn đường 1866, Thịnh Mĩ đường 1879. Dù cho sau này có những nghiên cứu khác với GS về quan điểm văn bảnTruyện Kiều (Đào Thái Tôn, Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn đường 1871, NXB Khoa học Xã hội, 2006), nhưng chính ý kiến khác biệt ấy, như tác giả của nó thừa nhận, đã được gợi ý từ phương pháp nghiên cứu của học giả Hoàng Xuân Hãn và công trình nghiên cứu về bản Duy Minh Thị 1872 của GS Nguyễn Tài Cẩn. Lại một lần nữa chúng ta được thấy tính năng sản về mặt phương pháp nghiên cứu của các công trình khoa học mà GS để lại cho đời. Phương pháp nghiên cứu nghiêm cẩn và khoa học ấy vẫn tiếp tục được thực hiện nhất quán trong hai cuốn sách mà GS in sau này (2004, 2008), tạo thành một “trilogy” (bộ ba) công trình nghiên cứu văn bản và từ ngữ Truyện Kiều mà người ta có thể dễ dàng nhận ra kể cả khi chúng không được dán nhãn “made by Nguyễn Tài Cẩn”. Đây chính là một xu hướng nghiên cứu quan trọng cần triển khai trong ngành “Kiều học” thế kỉ XXI mà người đặt những viên gạch nền tảng, không ai khác, chính là GS Nguyễn Tài Cẩn.

___________________________________________________

Danh mục công trình nghiên cứu chủ yếu về chữ Nôm của GS Nguyễn Tài Cẩn

1. Nguyễn Tài Cẩn (1971), Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kì xuất hiện của chữ Nôm, in trong: Tạp chí Ngôn ngữ, số 1; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 86-118.
2. Nguyễn Tài Cẩn (1972), Bổ sung thêm một số cứ liệu ngữ âm lịch sử có liên quan đến vấn đề thời kì xuất hiện chữ Nôm, in trong: Thông báo khoa học Trường Đại học Tổng hợp (Văn học – Ngôn ngữ), tập V, Hà Nội, 1972; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 119-137.
3. Nguyễn Tài Cẩn (1974), Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ “song viết”, in trong Tạp chí Văn học, số 2/1974; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 181-209.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Bàn thêm về “song viết? song biết? song kiết?”, in trong: Tạp chí Văn học, số 6/1975; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 210-227.
5. Nguyễn Tài Cẩn,N.V. Stankevitch (1976), Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm, in trong: Tạp chí Ngôn ngữ, số 2: tr. 15-25; số 3: tr. 14-24. [Bài viết này được in lại nhiều lần trong một số cuốn sách về chữ Nôm của GS Nguyễn Tài Cẩn].
6. Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội; tái bản: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
7. Nguyễn Tài Cẩn,N.V. Stankevitch (1981), Chữ Nôm, một thành tựu văn hóa của thời đại Lí – Trần, in trong: Viện Sử học, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lí – Trần, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 476-516.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985. [Cuốn sách này bao gồm 10 bài nghiên cứu, chủ yếu đã công bố rải rác từ năm 1971 đến năm 1981. Đây cũng là danh tác khoa học quan trọng nhất của GS Nguyễn Tài Cẩn trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Nôm].
9. Nguyễn Tài Cẩn (1987), Văn hóa chữ Hán và ngôn ngữ Việt Nam: vai trò của các yếu tố gốc Hán trong tiếng Việt hiện đại, in lần đầu bằng tiếng Nhật trong cuốn Hán tự dân tộc quyết đoán, Tokyo, 1987; in lại bằng tiếng Việt trong: Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 424-439.
10.Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
11.Nguyễn Tài Cẩn (2002), Tư liệu Truyện Kiều: Bản Duy Minh Thị 1872, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
12.Nguyễn Tài Cẩn (2004),Tư liệu Truyện Kiều: Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & NXB Văn học.
13.Nguyễn Tài Cẩn (2008), Tư liệu Truyện Kiều: Thử tìm hiểu bản sơ thảo Đoạn trường tân thanh, NXB Giáo dục.

______________________________________________________________

Posted in Chân dung các nhà ngôn ngữ học, Lịch sử tiếng Việt, Ngôn ngữ và văn hóa | Thẻ: , , | 1 Comment »

Đại từ chỉ ngôi tiếng Việt

Posted by tuldvnhloc trên Tháng Hai 24, 2011

Lê Đình Tư

Đại từ chỉ ngôi (hay đại từ nhân xưng) trong tiếng Việt khá phức tạp, do chúng không chỉ được dùng để chỉ ngôi mà còn được dùng để biểu thị những thái độ, tình cảm khác nhau của người nói. Đại từ chỉ ngôi tiếng Việt thường có tính bắt buộc; khi không dùng chúng, quan hệ giữa các vai giao tiếp có thể thay đổi theo hướng xấu hoặc theo hướng suồng sã, thân mật. Ví dụ: Câu “Chị ngồi xuống!” là câu nói lịch sự hơn câu “Ngồi xuống!”. Tùy theo hoàn cảnh, câu thứ hai có thể được tiếp nhận một cách tiêu cực (thiếu lễ độ) hoặc tích cực (thân mật).
Đại từ chỉ ngôi tiếng Việt được chia làm hai loại:

1. Đại từ chỉ ngôi chuyên dùng: Là những đại từ chỉ được sử dụng để chỉ ngôi, không dùng trong chức năng của từ loại khác. Hệ thống đại từ chỉ ngôi chuyên dùng có thể trình bày như sau:

Ngôi I Số ít: tôi/tao/tớ/ta
Ngôi I Số nhiều: chúng tôi/chúng tao/chúng tớ

Ngôi II Số ít: mày/mi/ngươi
Ngôi II Số nhiều: chúng mày/ bay/chúng bay/chúng mi

Ngôi gộp (ngôi I + II): Chúng ta/ta

Ngôi III Số ít: nó/hắn/y/va
Ngôi III Số nhiều: chúng nó/chúng hắn/họ/chúng

Đại từ chỉ ngôi chuyên dùng trong tiếng Việt không có ý nghĩa trung hòa, nghĩa là không chỉ dùng để chỉ ngôi mà còn dùng để bày tỏ quan hệ (xấu hay tốt, chính thức hay không chính thức, thân mật hay xa lạ) của các vai giao tiếp, do đó khi sử dụng cần phải cân nhắc để lựa chọn cho thích hợp. Ví dụ: Bạn bè với nhau, thường dùng tao, tớ để chỉ ngôi I số ít, chứ ít khi dùng tôi.

2. Đại từ chỉ ngôi lâm thời: Là những từ thuộc các nhóm từ loại khác nhưng được sử dụng như đại từ chỉ ngôi. Đó có thể là:
* Các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc: cụ, ông, bà, bố, mẹ, chú, bác, thím, cô, cậu, mợ, dì, anh, chị, em, con, cháu, chắt.
Nguyên tắc chung để sử dụng các danh-đại từ này là căn cứ vào vai giao tiếp (vị thế của các vai giao tiếp): Người đóng vai giao tiếp có quan hệ với nhau như thế nào thì sử dụng danh từ chỉ ngôi như thế. Ví dụ: Nếu vai giao tiếp là ôngcháu (hiểu theo nghĩa chính xác), hoặc có thể là ôngcháu xét về mặt tuổi tác (hiểu theo nghĩa mở rộng), thì ta sử dụng ‘ông’ và ‘cháu’ làm đại từ thay cho ‘tôi’, ‘mày’ ở ngôi thứ nhất và thứ hai. Như vậy, các danh-đại từ chỉ ngôi có thể được sử dụng để xưng hô trong gia đình, gia tộc nhưng cũng có thể sử dụng để xưng hô trong xã hội. Trong giao tiếp xã hội, tùy theo vị thế xã hội và mức độ thân mật giữa các vai giao tiếp mà lựa chọn những từ thich hợp. Chẳng hạn, một cô gái có thể xưng hô với một người ở tuổi bố mình là ‘ông-cháu’ để biểu thị sự kính trọng hoặc khiêm nhường; bạn bè thân với nhau có thể dùng cặp đại từ ‘bác-tôi’ hay ‘ông-tôi’ để thể hiện sự thân mật…
* Danh từ mình: Đây vốn là từ dùng để chỉ cơ thể người hoặc động vật nhưng thường được dùng làm đại từ chỉ ngôi trong trường hợp người nói muốn thể hiện mối quan hệ thân mật, hữu nghị với người nghe. Đại từ mình có thể dùng để chỉ cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai (số ít hoặc số nhiều). Khi sử dụng ở ngôi thứ nhất số nhiều, ta có thể thêm chúng vào trước thành chúng mình. Ví dụ:
1) Mình đi ăn đi.
2) Cậu quên mình rồi à?
3) Mình đi đâu đấy mình?
4) Chúng mình cứ vào xem thế nào rồi quyết định sau!
* Một số danh từ dùng để xưng hô một cách chính thức, như bạn, đồng chí, ngài, vị, và những danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học vị, như giám đốc, thủ trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống, thày giáo, cô giáo, bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ, cũng được dùng làm đại từ chỉ ngôi (ngôi II).
* Trong khẩu ngữ, có thể kết hợp một danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hàng trên (ví dụ: ông, bà, bố, mẹ, chú, cô, bác…) với một danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hàng dưới (ví dụ: cháu, chị, anh, em) để tạo ra đại từ nhân xưng ngôi II, ví dụ:
1) Ông cháu đi đâu đấy?
2) Xin chào bà chị!
3) Chú em hôm nay diện quá nhỉ!
4) Ông anh đòi cao thế thì em biết trả thế nào!
5) Sao cô em nóng tính thế?

Ngoài ra, cũng có thể kết hợp các từ chỉ quan hệ thân thuộc với các đại từ mày, nómình để tạo đại từ chỉ ngôi II. Ví dụ:
1) Chú mày định chuồn à?
2) Bố nó hôm nay bị ốm à?
3) Cô mình có đi với bọn anh không?
4) Mẹ nó vào ăn cơm.

* Đại từ chỉ ngôi III số ít có thể được tạo ra bằng cách kết hợp từ ‘ta’ hoặc ‘ấy’ với các từ chỉ quan hệ thân thuộc. Ví dụ: ông ta/ông ấy, bà ta/bà ấy, chị ta/chị ấy. Đại từ hắn cũng có thể kết hợp với ta để tạo thêm đại từ hắn ta chỉ ngôi III. Nói chung, từ ta thường cho ý nghĩa tiêu cực hơn, trong khi từ ấy thường cho ý nghĩa trung hòa hơn. So sánh:
1) Anh ta chẳng thích ai ở cơ quan mình.
2) Anh ấy chẳng thích ai ở cơ quan mình.

Cần nhớ rằng, từ ta chỉ có thể kết hợp với những từ chỉ người lớn tuổi hơn (anh, chị, chú, cô, ông, bà…), chứ không thể kết hợp với những từ chỉ người ít tuổi hơn (em, cháu, con…), ví dụ: Không thể nói ‘em ta’ hay ‘cháu ta’ với ý nghĩa là ‘nó’ mà chỉ dùng với ý nghĩa: ‘em của chúng ta’ hay ‘cháu của chúng ta’.

* Ngoài ra, từ ‘ta’ và ‘ấy’ còn có thể được kết hợp với một số danh từ chỉ người theo độ tuổi và giới tính (lão, mụ) để chỉ ngôi III. Thường thì dạng thức này mang thêm ý nghĩa tiêu cực hoặc thân mật, tuỳ theo ngữ cảnh. Ví dụ:
1) Lão ta về vườn rồi.
2) Mụ ấy có tới năm cái nhà cho thuê.

Cuối cùng, trong tiếng Việt còn có một số đại từ nhân xưng đặc biệt dùng để thể hiện những tình cảm, thái độ đặc biệt kính trọng hoặc suồng sã: Người; ông cụ/bà cụ (= mẹ/bố, ví dụ: bà cụ tôi = mẹ tôi).

Câu hỏi và bài tập

1/ Đại từ chỉ ngôi chuyên dùng là gì? Đại từ chỉ ngôi chuyên dùng tiếng Việt có gì đặc biệt? Hãy cho một vài ví dụ với các đại từ chỉ ngôi chuyên dùng nhằm làm rõ sự khác biệt về quan hệ khi thay đổi đại từ chỉ ngôi.
2/ Đại từ chỉ ngôi lâm thời là gì? Những từ nào có thể được sử dụng làm đại từ chỉ ngôi lâm thời?
3/ Hãy mô tả các đại từ chỉ ngôi II số ít và số nhiều và cho ví dụ minh họa.
4/ Hãy mô tả các đại từ chỉ ngôi III số ít và số nhiều và cho ví dụ minh họa.
5/ Nêu sự khác biệt giữa các đại từ chỉ ngôi trong các ví dụ sau:
Anh đi đâu đấy?/ Ông anh đi đâu đấy?
– Chị cho em hỏi, xe này có đi Mai Động không?/ Bà chị cho em hỏi, xe này có đi Mai Động không?
– Bố nó ăn cơm đi!/ Bố nó đi ăn cơm.
– Bà ấy luôn luôn làm việc thiện./ Bà ta luôn luôn làm việc thiện!
– Hôm nay ông ấy không tiếp ai cả./ Hôm nay lão ta không tiếp ai cả
.

_______________________________________

Posted in Ngôn ngữ học miêu tả, Ngữ pháp học, Ngữ pháp miêu tả tiếng Việt | Thẻ: , , , , , , , | 8 Comments »